1. Trích dẫn chương 2 quyển Công Vụ Các Sứ Đồ, sự ngự giáng của Đức Thánh Linh ở biến cố này có khác với sự ngự giáng của Ngài từng xảy ra lúc trước trong Cựu Ước không?
2. Sự khác biệt này được thể hiện qua các từ ngữ khác nhau trong tiếng Hy-lạp như thế nào?
Giải đáp :
Giữa Cựu Ước và Tân Ước có một sự khác biệt khi nói đến sự xuất hiện và ngự giáng của Đức Thánh Linh. Cựu Ước nói đến sự xức dầu của Đức Thánh Linh, và sự xức dầu này chỉ nhất thời:
Thí dụ : 1 Sa-mu-ên 16:13
Thực hành xức dầu trong Cựu Ước mang ý nghĩa rót, đổ dầu trên một người: Sa-mu-ên 16:13; Xuất Ê-gýp-tô Ký 30:22.23; Lê-vi Ký 21:10. Đó là hình ảnh một sự biệt phái cho một chức vụ hay một công việc rõ rệt và đặc biệt.
Không phải ai cũng được xức dầu: nghi thức này chỉ dành có các thầy tế lễ (Xuất Ê-gýp-tô Ký 30:22.30), một số vật dụng (Xuất Ê-gýp-tô Ký 30:22.26), các vua (Sa-mu-ên 10:1) và các nhà tiên tri (Các Vua 19:16).
Từ Hê-bơ-rơ masha'h, “xức hay thoa dầu”, và các từ liên quan đến từ này đã đem đến động từ khrio trong tiếng Hy-lạp và các danh từ khrisis và khrisma, xức dầu (Xuất Ê-gýp-tô Ký 29:7 và 21, Lê-vi Ký 7:35, cũng như từ alii), với thể từ tính từ ὁ χριστὸς, ho khristos, “người được xức dầu” (הַכֹּהֵן הַמָּשִׁיחַ, HaCohen HaMashya'h, thầy tế lễ được xức dầu , Lê-vi Ký 4:5), hay thể từ động tính từ ho kekhrismenos “người được xức dầu bởi …”, Lê-vi Ký 4:3). Thể thức này trong tiếng Hy-lạp đã đem đến từ Khristos được tấn phong cho Chúa Giê-su “Christ”, trong khi từ dịch sang tiếng Anh, Pháp của từ trong tiếng Hê-bơ-rơ mashia'h, “Masshias”, đã cho ra đời từ tiếng Pháp “Messie” - Đấng Mê-si.
Một từ khác đến từ Cựu Ước là động từ “nắm lấy – biệt phái” trong tiếng Hê-bơ-rơ “tsalach”, có nghĩa là trở thành người chiến thắng trong một hành động nhất thời nào đó.
Các Quan Xét 14:6 : Sam-sôn được biệt phái và nhận lãnh sức mạnh để giết chết một con sư tử. “καὶ κατηύθυνεν ἐπ αὐτὸν πνεύμα κυρίου” Bible Septante – Kinh Thánh phiên bản Thập Thất
Động từ tiếng Hy-lạp “Katalambano” (phiên bản strong 2638) đến từ kata (2596) và lambano (2983) Nắm lấy một điều gì đó để biến điều đó thành sở hữu riêng của mình.
Anh chị hãy xem Các Quan Xét 14:19… v.v…
Trong Tân Ước động từ thường sử dụng lại là “đổ đầy” hay “đầy dẫy”
Lu-ca 4:1 Ἰησοῦς δὲ πλήρης πνεύματος ἁγίου = Chúa Giê-su, đầy dẫy Thánh Linh, trở về từ song Giô-đanh.
πλήρης : đầy ; đầy đủ
Công Vụ Các Sứ Đồ 2:4 καὶ ἐπλήσθησαν πάντες πνεύματος ἁγίου,
Bible phiên bản 1934 tiếng Việt: “Hết thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh”
Bản Dịch 2011 (BD2011): “Tất cả được đầy dẫy Ðức Thánh Linh”
New Vietnamese Bible (NVB) “tất cả đều đầy dẫy Thánh Linh,”
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT) : “Tất cả được đầy Thánh Linh”
πλήθω = đổ đầy, hoàn tất, trọn vẹn với một quan niệm tồn tại lâu dài, quan niệm không có trong Cựu Ước. Điều đó đã được Chúa Giê-su xác nhận trong phân đoạn Giăng 14:17 “tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sự ở trong các ngươi.”
πλήθω = Công Vụ Các Sứ Đồ 3:10 ; 4:8 ; 4:31 ; 5:17 ;9:17 ;13:9 ;13:45 ;19:29
Một từ ngữ khác liên quan đến sự bày tỏ và giáng ngự của Đức Thánh Linh cũng hỗ trợ quan niệm đổ đầy và không được sử dụng ngoại trừ một phân đoạn duy nhất
Công Vụ Các Sứ đồ 1:5 :
“Vì chưng Giăng đã làm phép báp-tem (βαπτίζω = trầm mình dưới nước) bằng nước, nhưng trong ít ngày, các ngươi sẽ chịu phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh.”
// Ma-thi-ơ 3:11; Mác 1:8; Lu-ca 3:16; Giăng 1:33 và Công Vụ Các Sứ Đồ 1:5
// Giô-ên 2:28-29 “Sau đó, ta sẽ đổ Thần ta trên các loài xác thịt; con trai và con gái các ngươi sẽ nói tiên tri; những người già cả các ngươi sẽ thấy chiêm bao, những kẻ trai trẻ các ngươi sẽ xem sự hiện thấy.”
Sự loan báo lễ Ngũ Tuần với phân đoạn Giô-ên 3:2 theo phiên bản Thập Thất “καὶ ἐπὶ τοὺς δούλους καὶ ἐπὶ τὰς δούλας ἐν ταῖς ἡμέραις ἐκείναις ἐκχεῶ ἀπὸ τοῦ πνεύματός μου.”
ἐκχεῶ= đổ ra ; lan tỏa ra, phân phát với một số lượng lớn; mang ý tưởng đổ đầy, làm cho trọn vẹn.
báp-têm Thánh Linh : một sự đầy dẫy, một sự ngập tràn
Công vụ. 2:4 : "Hết thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, khởi sự nói các thứ tiếng khác, theo như Đức Thánh Linh cho mình nói." Công vụ. 9:17, 18 ; 10:47, 48...
Từ thuật ‘báp-têm’ có nghĩa là « được dìm trong », một sự « ngâm mình vào nước ».
Báp-têm bằng nước có nghĩa là được dìm mình trong nước.
Được báp-têm bằng Đức Thánh Linh có nghĩa là dìm mình trong Đức Thánh Linh, đi vào một mối tương giao thân thiết với ngôi vị Đức Thánh Linh. Kết quả của sự đầy dẫy này (đầy dẫy Đức Thánh Linh) là sự tuôn trào : nói tiếng lạ (Công vụ. 2:4 : " Hết thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, khởi sự nói các thứ tiếng khác,...").
Sự đầy dẫy hay ngập tràn này cần phải được bảo trì thường xuyên : Êph. 5:18-21.
Công Vụ Các Sứ Đồ 2:38-39 “Phi -e-rơ trả lời rằng: Hãy hối cải, ai nấy phải nhơn danh Đức Chúa Jêsus chịu phép báp-tem, để được tha tội mình, rồi sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh. Vì lời hứa thuộc về các ngươi, con cái các ngươi, và thuộc về hết thảy mọi người ở xa, tức là bao nhiêu người mà Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta sẽ gọi.”
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Sứ đồ Phi-e-rơ công bố rằng báp-têm bởi Thánh Linh là dành cho tất cả những ai đặt niềm tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-su. Về sau, ông cũng nói thêm rằng lời hứa này dành cho tất cả những ai vâng phục Lời Đức Chúa Trời : Công vụ. 5:32 : "Còn chúng ta đây là kẻ làm chứng mọi việc đó, cũng như Đức Thánh Linh mà Đức Chúa Trời đã ban cho kẻ vâng lời Ngài vậy."
Sự vâng lời này không phải là một công việc để được ca ngợi, nhưng nó chứa đựng « một thái độ đã tin » (th.kh. Gal. 3:1-5).