Cuộc Cải chánh / Reformation
PHIM CUỘC CẢI CHÁNH (Martin Luther)
Cải cách Tin Lành
Các Bậc Tiền Khu Của Cuộc Cải Chánh
Giáo phái Pétrobusien, do Pierre de Bruys, môn đệ của Abelard, sáng lập năm 1110 tại Pháp, không công nhận lễ Mi-sa; họ cũng quả quyết rằng Tiệc Thánh là một lễ kỷ niệm, và các Mục sư đáng phải cưới vợ.
Arnaud de Brascia, môn đệ của Abelard, năm 1155, giảng rằng Hội Thánh không nên có tài sản, quyền hành chánh thuộc về những người không có phẩm chức Hội Thánh, và thành La-mã phải được giải phóng khỏi quyền cai trị của Giáo hoàng. Ông bị thắt cổ chết theo lời yêu cầu của Giáo hoàng Adrien IV.
Giáo phái Albigeois, hoặc Cathares, ở miền Nam nước Pháp, miền Bắc Tây-ban-nha, và miền Bắc Ý-đại-lợi. Giảng chống lại hành vi hủ hoại của các thầy cả, sự thăm viếng các nơi thánh, sự thờ lạy các thánh và ảnh tượng; hoàn toàn không công nhận giới phẩm chức Giáo hội và các điều họ tự nhận; chỉ trích tình trạng Giáo hội; phản đối những yêu sách của Giáo hội La-mã; dùng Kinh Thánh rất nhiều; sống cuộc đời từ bỏ mình và rất sốt sắng đối với sự thanh khiết của tâm hồn. Khoảng năm 1167, giáo phái nầy có lẽ gồm đa số dân chúng miền Nam nước Pháp. Khoảng năm 1200, họ rất đông đúc ở miền Bắc Ý-đại-lợi. Năm 1208, Giáo hoàng Innocent III truyền lịnh mở một cuộc viễn chinh chống họ; theo sau đó, có một cuộc chiến tranh tuyệt diệt đẫm máu, hầu như độc nhất vô song trong lịch sử; lưỡi gươm đi qua hết thị trấn nầy đến thị trấn kia, dân chúng bị tàn sát không phân biệt tuổi tác, nam, nữ. Năm 1229, Tôn giáo Pháp đình được thiết lập, và trong vòng 100 năm, giáo phái Albigeois đã hoàn toàn bị trừ khử.
Giáo phái Vaudois ở miền Nam nước Pháp và miền Bắc Ý-đại-lợi. Giống như giáo phái Albigeois, nhưng không phải là một. Năm 1176, Waldo, một thương gia giàu có ở thành Lyon, miền Nam nước Pháp, đem tài sản phân phát cho người nghèo, rồi đi giảng đạo. Ông phản đối sự tiếm vị và phóng đãng của giới phẩm chức Giáo hội; không thừa nhận sự giảng Tin Lành là độc quyền của giới ấy; không nhìn nhận lễ Mi-sa, sự cầu nguyện cho kẻ chết và nơi luyện tội; dạy rằng Kinh Thánh là mực thước duy nhất cho đức tin và đời sống. Sự giảng dạy của Giáo phái nầy khiến dân chúng nôn nả ham thích đọc Kinh Thánh. Giáo phái nầy lần lần bị Tôn giáo Pháp đình trừ diệt; duy ở thung lũng dãy núi Alpes, về phía Tây nam thành Turin, ta còn thấy họ; đó là giáo phái duy nhất thời Trung cổ còn sống sót, để kể lại truyện tích anh dũng chịu đựng các cơn bắt bớ. Ngày nay, giáo phái nầy là đoàn thể Tin Lành quan trọng nhất ở nước Ý.
Pétrarque (1304-1374), Lãnh tụ trọng yếu của cuộc Phục hưng Văn nghệ; nói rằng Avignon, trú sở của các Giáo hoàng, là "cái rãnh của địa ngục."
Jean Wyclif (1324-1384), giáo sư tại thành phố Oxford, nước Anh. Giảng chống lại sự đô hộ thiêng liêng của giới thầy cả và quyền hành của Giáo hoàng; phản đối sự có các Giáo hoàng, Hồng y Giáo chủ, Giáo trưởng và tu sĩ; công kích giáo lý về sự biến thể (transsubstantiation) và sự xưng tội với thầy cả; binh vực dân chúng có quyền đọc Kinh Thánh; dịch Kinh Thánh ra tiếng Anh. Những người theo ông gọi là Lollards.
Jean Huss (1369-1415). Ðại học Viện trưởng tại thành Prague, xứ Bohême. Ông là môn đệ của Wiclif, và các tác phẩm của Wiclif đã được đem vào xứ Bohême. Ông trở thành một nhà Truyền đạo can đảm, chẳng sợ hãi ai; công kích thói hư tật xấu của giới phẩm chức Giáo hội và các sự hư hoại của Giáo hội; hết sức hăng hái lên án sự bán phiếu ân xá; không thừa nhận nơi luyện tội, sự thờ lạy các thánh, và sự hành lễ bằng ngoại ngữ; tôn cao Kinh Thánh lên trên các tín điều và mạng lịnh của Giáo hội. Ông bị thiêu sống trên giàn, và các môn đệ của ông, phần lớn là dân xứ Bohême, đã bị tiêu diệt gần hết trong một cuộc viễn chinh theo lịnh của Giáo hoàng.
Savonarole (1452-1498) ở thành Florence, nước Ý. Giảng dạy như một đấng tiên tri Hê-bơ-rơ, cho những đoàn dân đông đúc kéo đến nhà thờ của ông; ông chống lại sự phóng đãng và tội lỗi của thành nầy, cùng thói hư tật xấu của Giáo hoàng. Dân thành nầy ăn năn và cải cách. Nhưng Giáo hoàng Alexandre VI tìm đủ cách bịt miệng nhà Truyền đạo công bình nầy, thậm chí thử hối lộ ông bằng cách hứa phong cho ông làm Hồng y Giáo chủ, nhưng vô ích. Ông bị treo cổ chết giữa đại công trường thành Florence 19 năm trước khi Martin Luther niêm yết 95 luận đề.
Giáo phái Anabaptiste xuất hiện giữa thời Trung cổ, ở nhiều nước Âu-châu, dưới nhiều danh hiệu khác nhau, họp thành những nhóm độc lập, và đại diện cho nhiều giáo lý khác nhau. Nhưng nói chung, họ hăng hái chống lại giới phẩm chức Giáo hội, không thừa nhận sự làm lễ báp-têm cho trẻ sơ sanh, chuyên tâm học Kinh Thánh, và chủ trương Giáo hội phải tuyệt đối phân rẽ với nhà nước. Ðương thời Cải chánh, họ rất đông đúc ở Ðức, Hòa-lan, Thụy-sĩ, và trường cửu hóa những tư tưởng đã lưu truyền từ bao nhiêu thế hệ trước. Nói chung, họ là những người lặng lẽ và thật sùng kính Chúa, nhưng đã bị bắt bớ kịch liệt, nhất là ở Hòa lan.
Cuộc Phục hưng Văn nghệ đã thực hiện, một phần như là kết quả do các cuộc Viễn chinh của Thập tự quân, cuộc Phục hưng ấy, cùng áp lực của người Thổ-nhĩ-kỳ và sự suy vong của thành Constantinople, đã giúp cho phong trào Cải chánh. Người ta sanh ra ham mến những tác phẩm cổ điển, và bỏ ra bao nhiêu số tiền rất lớn để thâu thập các bản thảo và sáng lập thư viện. Chính lúc đó, người ta sáng chế được máy in, và kết quả có rất nhiều tự điển, sách văn phạm, bản dịch và sách giải nghĩa. Người ta nghiên cứu Kinh Thánh nguyên văn. "Vì lại biết nguồn gốc của đạo Ðấng Christ, nên người ta thấy chỗ khác nhau tột bậc giữa sự giản dị nguyên thủy của Tin Lành và sự giả tạo của giới phẩm chức Giáo hội vẫn tự nhận là xây dựng trên Tin Lành ấy." "Sở Dĩ Có Cuộc Cải Chánh Là Vì Tâm Trí Người Ta Ðược Tiếp Xúc Thẳng Với Kinh Thánh." Kết quả là tâm trí loài người được giải phóng khỏi quyền hành của giới thầy cả và của Giáo hoàng.
Erasme (1466-1536) là học giả tiếng tăm nhứt và người viết sách được hoan nghinh nhứt đương thời Cải chánh. Dục vọng lớn lao của ông là giải phóng người ta khỏi những ý niệm giả dối về tôn giáo; ông cho rằng phương pháp tốt nhứt để làm việc ấy là quay về với Kinh Thánh. Bản Tân Ước tiếng Hi-lạp của ông hiến cho các dịch giả một bản văn rất đúng để phiên dịch. Ông là người chỉ trích Giáo hội Công giáo La-mã rất kịch liệt, và đặc biệt ưa thích chế giễu "bọn người ô uế bận áo thánh." Ông giúp cuộc Cải chánh rất nhiều, nhưng không hề gia nhập phong trào ấy.
Tình hình. Sự bất mãn ngày càng lan rộng trước sự hư hoại của Giáo hội và của giới phẩm chức Giáo hội. Dân chúng đã hóa ra bướng bỉnh dưới sự tàn khốc của Tôn giáo Pháp đình. Các nhà cầm quyền hành chánh đã chán ghét sự Giáo hoàng can thiệp vào các công tác của chánh phủ. Tây-âu xao xuyến dưới hệ thống phẩm chức Giáo hội bắt họ làm tôi mọi; vậy, "khi tiếng kèn của Luther vang dậy, thì nước Ðức, nước Anh, xứ Tô-cách-lan và nhiều nước khác giựt mình vùng lên, chẳng khác gì những người khổng lồ đang ngủ thức dậy."
http://www.vietchristian.com/kinhthanh/reader.asp?pid=,src=/kinhthanh/tklk/tklk.xml,name=Chuong,enc=2,nl=0,id=93,max=114
Giáo phái Pétrobusien, do Pierre de Bruys, môn đệ của Abelard, sáng lập năm 1110 tại Pháp, không công nhận lễ Mi-sa; họ cũng quả quyết rằng Tiệc Thánh là một lễ kỷ niệm, và các Mục sư đáng phải cưới vợ.
Arnaud de Brascia, môn đệ của Abelard, năm 1155, giảng rằng Hội Thánh không nên có tài sản, quyền hành chánh thuộc về những người không có phẩm chức Hội Thánh, và thành La-mã phải được giải phóng khỏi quyền cai trị của Giáo hoàng. Ông bị thắt cổ chết theo lời yêu cầu của Giáo hoàng Adrien IV.
Giáo phái Albigeois, hoặc Cathares, ở miền Nam nước Pháp, miền Bắc Tây-ban-nha, và miền Bắc Ý-đại-lợi. Giảng chống lại hành vi hủ hoại của các thầy cả, sự thăm viếng các nơi thánh, sự thờ lạy các thánh và ảnh tượng; hoàn toàn không công nhận giới phẩm chức Giáo hội và các điều họ tự nhận; chỉ trích tình trạng Giáo hội; phản đối những yêu sách của Giáo hội La-mã; dùng Kinh Thánh rất nhiều; sống cuộc đời từ bỏ mình và rất sốt sắng đối với sự thanh khiết của tâm hồn. Khoảng năm 1167, giáo phái nầy có lẽ gồm đa số dân chúng miền Nam nước Pháp. Khoảng năm 1200, họ rất đông đúc ở miền Bắc Ý-đại-lợi. Năm 1208, Giáo hoàng Innocent III truyền lịnh mở một cuộc viễn chinh chống họ; theo sau đó, có một cuộc chiến tranh tuyệt diệt đẫm máu, hầu như độc nhất vô song trong lịch sử; lưỡi gươm đi qua hết thị trấn nầy đến thị trấn kia, dân chúng bị tàn sát không phân biệt tuổi tác, nam, nữ. Năm 1229, Tôn giáo Pháp đình được thiết lập, và trong vòng 100 năm, giáo phái Albigeois đã hoàn toàn bị trừ khử.
Giáo phái Vaudois ở miền Nam nước Pháp và miền Bắc Ý-đại-lợi. Giống như giáo phái Albigeois, nhưng không phải là một. Năm 1176, Waldo, một thương gia giàu có ở thành Lyon, miền Nam nước Pháp, đem tài sản phân phát cho người nghèo, rồi đi giảng đạo. Ông phản đối sự tiếm vị và phóng đãng của giới phẩm chức Giáo hội; không thừa nhận sự giảng Tin Lành là độc quyền của giới ấy; không nhìn nhận lễ Mi-sa, sự cầu nguyện cho kẻ chết và nơi luyện tội; dạy rằng Kinh Thánh là mực thước duy nhất cho đức tin và đời sống. Sự giảng dạy của Giáo phái nầy khiến dân chúng nôn nả ham thích đọc Kinh Thánh. Giáo phái nầy lần lần bị Tôn giáo Pháp đình trừ diệt; duy ở thung lũng dãy núi Alpes, về phía Tây nam thành Turin, ta còn thấy họ; đó là giáo phái duy nhất thời Trung cổ còn sống sót, để kể lại truyện tích anh dũng chịu đựng các cơn bắt bớ. Ngày nay, giáo phái nầy là đoàn thể Tin Lành quan trọng nhất ở nước Ý.
Pétrarque (1304-1374), Lãnh tụ trọng yếu của cuộc Phục hưng Văn nghệ; nói rằng Avignon, trú sở của các Giáo hoàng, là "cái rãnh của địa ngục."
Jean Wyclif (1324-1384), giáo sư tại thành phố Oxford, nước Anh. Giảng chống lại sự đô hộ thiêng liêng của giới thầy cả và quyền hành của Giáo hoàng; phản đối sự có các Giáo hoàng, Hồng y Giáo chủ, Giáo trưởng và tu sĩ; công kích giáo lý về sự biến thể (transsubstantiation) và sự xưng tội với thầy cả; binh vực dân chúng có quyền đọc Kinh Thánh; dịch Kinh Thánh ra tiếng Anh. Những người theo ông gọi là Lollards.
Jean Huss (1369-1415). Ðại học Viện trưởng tại thành Prague, xứ Bohême. Ông là môn đệ của Wiclif, và các tác phẩm của Wiclif đã được đem vào xứ Bohême. Ông trở thành một nhà Truyền đạo can đảm, chẳng sợ hãi ai; công kích thói hư tật xấu của giới phẩm chức Giáo hội và các sự hư hoại của Giáo hội; hết sức hăng hái lên án sự bán phiếu ân xá; không thừa nhận nơi luyện tội, sự thờ lạy các thánh, và sự hành lễ bằng ngoại ngữ; tôn cao Kinh Thánh lên trên các tín điều và mạng lịnh của Giáo hội. Ông bị thiêu sống trên giàn, và các môn đệ của ông, phần lớn là dân xứ Bohême, đã bị tiêu diệt gần hết trong một cuộc viễn chinh theo lịnh của Giáo hoàng.
Savonarole (1452-1498) ở thành Florence, nước Ý. Giảng dạy như một đấng tiên tri Hê-bơ-rơ, cho những đoàn dân đông đúc kéo đến nhà thờ của ông; ông chống lại sự phóng đãng và tội lỗi của thành nầy, cùng thói hư tật xấu của Giáo hoàng. Dân thành nầy ăn năn và cải cách. Nhưng Giáo hoàng Alexandre VI tìm đủ cách bịt miệng nhà Truyền đạo công bình nầy, thậm chí thử hối lộ ông bằng cách hứa phong cho ông làm Hồng y Giáo chủ, nhưng vô ích. Ông bị treo cổ chết giữa đại công trường thành Florence 19 năm trước khi Martin Luther niêm yết 95 luận đề.
Giáo phái Anabaptiste xuất hiện giữa thời Trung cổ, ở nhiều nước Âu-châu, dưới nhiều danh hiệu khác nhau, họp thành những nhóm độc lập, và đại diện cho nhiều giáo lý khác nhau. Nhưng nói chung, họ hăng hái chống lại giới phẩm chức Giáo hội, không thừa nhận sự làm lễ báp-têm cho trẻ sơ sanh, chuyên tâm học Kinh Thánh, và chủ trương Giáo hội phải tuyệt đối phân rẽ với nhà nước. Ðương thời Cải chánh, họ rất đông đúc ở Ðức, Hòa-lan, Thụy-sĩ, và trường cửu hóa những tư tưởng đã lưu truyền từ bao nhiêu thế hệ trước. Nói chung, họ là những người lặng lẽ và thật sùng kính Chúa, nhưng đã bị bắt bớ kịch liệt, nhất là ở Hòa lan.
Cuộc Phục hưng Văn nghệ đã thực hiện, một phần như là kết quả do các cuộc Viễn chinh của Thập tự quân, cuộc Phục hưng ấy, cùng áp lực của người Thổ-nhĩ-kỳ và sự suy vong của thành Constantinople, đã giúp cho phong trào Cải chánh. Người ta sanh ra ham mến những tác phẩm cổ điển, và bỏ ra bao nhiêu số tiền rất lớn để thâu thập các bản thảo và sáng lập thư viện. Chính lúc đó, người ta sáng chế được máy in, và kết quả có rất nhiều tự điển, sách văn phạm, bản dịch và sách giải nghĩa. Người ta nghiên cứu Kinh Thánh nguyên văn. "Vì lại biết nguồn gốc của đạo Ðấng Christ, nên người ta thấy chỗ khác nhau tột bậc giữa sự giản dị nguyên thủy của Tin Lành và sự giả tạo của giới phẩm chức Giáo hội vẫn tự nhận là xây dựng trên Tin Lành ấy." "Sở Dĩ Có Cuộc Cải Chánh Là Vì Tâm Trí Người Ta Ðược Tiếp Xúc Thẳng Với Kinh Thánh." Kết quả là tâm trí loài người được giải phóng khỏi quyền hành của giới thầy cả và của Giáo hoàng.
Erasme (1466-1536) là học giả tiếng tăm nhứt và người viết sách được hoan nghinh nhứt đương thời Cải chánh. Dục vọng lớn lao của ông là giải phóng người ta khỏi những ý niệm giả dối về tôn giáo; ông cho rằng phương pháp tốt nhứt để làm việc ấy là quay về với Kinh Thánh. Bản Tân Ước tiếng Hi-lạp của ông hiến cho các dịch giả một bản văn rất đúng để phiên dịch. Ông là người chỉ trích Giáo hội Công giáo La-mã rất kịch liệt, và đặc biệt ưa thích chế giễu "bọn người ô uế bận áo thánh." Ông giúp cuộc Cải chánh rất nhiều, nhưng không hề gia nhập phong trào ấy.
Tình hình. Sự bất mãn ngày càng lan rộng trước sự hư hoại của Giáo hội và của giới phẩm chức Giáo hội. Dân chúng đã hóa ra bướng bỉnh dưới sự tàn khốc của Tôn giáo Pháp đình. Các nhà cầm quyền hành chánh đã chán ghét sự Giáo hoàng can thiệp vào các công tác của chánh phủ. Tây-âu xao xuyến dưới hệ thống phẩm chức Giáo hội bắt họ làm tôi mọi; vậy, "khi tiếng kèn của Luther vang dậy, thì nước Ðức, nước Anh, xứ Tô-cách-lan và nhiều nước khác giựt mình vùng lên, chẳng khác gì những người khổng lồ đang ngủ thức dậy."
http://www.vietchristian.com/kinhthanh/reader.asp?pid=,src=/kinhthanh/tklk/tklk.xml,name=Chuong,enc=2,nl=0,id=93,max=114
Cuộc Cải Chánh
Martin Luther (1483-1546) đứng đầu hàng vĩ nhân của mọi thời đại, sau Ðức Chúa Jêsus và Phao-lô. Ông lãnh đạo thế giới trong cuộc nổi dậy giành tự do, thoát khỏi chế độ chuyên chế hơn hết trong lịch sử. "Ông là nhà sáng lập nền văn minh Tin Lành." Ông sanh năm 1483, tại thành Eisleben, trong một gia đình nghèo. Năm 1501, ông vào trường Ðại học Erfurt để học luật khoa. Ông là "một sanh viên xuất sắc, hay nói chuyện và tranh luận, rất có tài xã giao và âm nhạc." Ông tốt nghiệp sau một thời gian hết sức ngắn ngủi. Năm 1506, ông thình lình quyết định vào tu viện. Là một tu sĩ gương mẫu và rất sùng đạo, ông đã kiêng ăn và tự khảo đả đủ cách; ông cũng tự đặt ra nhiều cách khảo đả mới mẻ. Theo lời ông nói, suốt hai năm ông chịu "nỗi thống khổ không bút nào tả xiết." Một ngày kia trong năm 1508, đang khi đọc thơ Rô-ma, ông thình lình được soi sáng và được bình an: "Người công bình sẽ sống bởi đức tin " (Rô-ma 1:17). Rốt lại, ông thấy rằng phải được cứu rỗi bởi tin cậy Ðức Chúa Trời qua Ðấng Christ, chớ chẳng phải bởi nghi lễ, phép bí tích và phép khổ hạnh của Giáo hội. Sự thấy nầy đã thay đổi cả cuộc đời ông và Cả Dòng Lịch Sử." Dầu sự phát minh của ông làm cho một Giáo hội dưới quyền thầy cả không cần thiết nữa, nhưng ông không lập tức nhìn biết như vậy." Ông vẫn còn chịu nhận mọi tục lệ của Giáo hội, lễ Mi-sa, thánh tích, phiếu ân xá, sự hành hương (pèlerinage) và quyền hành của Giáo hoàng. Năm 1508, ông làm giáo sư tại trường Ðại học Wittenberg, và cứ giữ địa vị ấy cho đến khi qua đời, năm 1546. Năm 1511, ông tới thành La-mã, và dầu thất kinh trước sự bại hoại, hư xấu của triều đình Giáo hoàng, ông cũng vẫn nhìn nhận quyền hành của Giáo hội. Ông trở về Wittenberg, và các bài ông giảng về Kinh Thánh bắt đầu hấp dẫn các sanh viên từ mọi phương nước Ðức.
Phiếu ân xá.-- Việc Tetzel bán phiếu ân xá là cơ hội cho Luther ly khai với Giáo hội La-mã. Phiếu ân xá là bản giảm nhẹ sự đau đớn ở nơi luyện tội, tức là tha cho khỏi bị hình phạt vì tội lỗi. Theo giáo lý của Giáo hội La-mã, thì nơi luyện tội gần giống như địa ngục, duy nó không kéo lâu dài như vậy; mọi người phải trải qua nơi luyện tội. Nhưng Giáo hoàng tự nhận có quyền giảm bớt hoặc miễn hết sự đau đớn ấy, và đặc quyền ấy thuộc riêng về Giáo hoàng. Phiếu ân xá bắt đầu đương thời các Giáo hoàng Pascal I (817-824) và Jean VIII (872-882). Người ta thấy phiếu ân xá của Giáo hoàng có lợi bội phần, và chẳng bao lâu, nó được sử dụng cùng khắp. Họ cấp phiếu ân xá để xui giục người ta dự cuộc viễn chinh của Thập-tự-quân, dự cuộc chiến tranh chống kẻ theo tà giáo, hoặc chống một vua nào mà Giáo hoàng muốn trừng phạt; cũng cấp cho các chánh thẩm Tôn giáo Pháp đình, hoặc kẻ vác củi để thiêu một người theo tà giáo, hoặc kẻ hành hương tại La-mã, hoặc kẻ đã dự vào một công cuộc công, tư của Giáo hoàng; hoặc cũng ÐEM BÁN LẤY TIỀN.
Năm 1476, Giáo hoàng Sixte VI là người thứ nhứt áp dụng phiếu ân xá cho những linh hồn đã ở nơi luyện tội. Các phiếu ân xá đã được bao thầu và đem bán lẻ. Như vậy, "bán đặc quyền phạm tội" trở thành một nguồn lợi tức chánh yếu của Giáo hoàng. Năm 1517, Jean Tetzel trải qua nước Ðức, bán những chứng chỉ có Giáo hoàng ký tên, hiến sự tha thứ hết tội lỗi cho kẻ mua và bạn bè họ, không cần phải xưng tội, ăn năn, khổ hạnh, hoặc được thầy cả xá miễn cho. Hắn nói với dân chúng rằng: "Ngay khi đồng tiền của các ngươi kêu keng trong thùng nầy, thì linh hồn của bạn hữu các ngươi được từ nơi luyện tội thẳng tới Thiên đàng." Luther lấy thế làm kinh tởm.
95 luận đề.-- Ngày 31-10-1517, tại cửa nhà thờ Wittenberg, Luther niêm yết 95 luận đề, hầu hết liên quan đến phiếu ân xá, nhưng cốt là đả kích quyền hành của Giáo hoàng. Ðó chỉ là lời rao rằng ông sẵn lòng tranh luận các vấn đề ấy tại trường Ðại học. Nhưng khắp nước Ðức, người ta hăm hở tìm kiếm bản in các luận đề ấy. Nó tự chứng tỏ là "cái tàn lửa làm cho cả Âu-châu bùng cháy." Truyền đơn nầy theo sau truyền đơn kia, bằng tiếng La-tinh cho bậc trí thức, và bằng tiếng Ðức cho thường dân. Khoảng năm 1520, Luther đã trở nên người được dân chúng hoan nghinh nhứt nước Ðức.
Luther bị dứt phép thông công.-- Năm 1520, Giáo hoàng ra sắc lịnh dứt phép thông công Luther, và tuyên bố rằng nếu trong vòng 60 ngày, ông không chịu rút lời, thì sẽ phải chịu "sự hình phạt dành cho kẻ theo tà giáo" (tức là tử hình). Khi Luther nhận được sắc lịnh ấy, ông đã công khai đốt nó đi (10-12-1520). Ông Nichols nói rằng: "Ngày ấy, một thời đại mới trong lịch sử đã mở đầu."
Nghị nội Worms (1521). Luther bị Charles V, hoàng đế của đế quốc La-mã thánh (đương thời ấy gồm Ðức, Tây-ban-nha, Hòa-lan và Áo), đòi phải ứng hầu trước nghị hội Worms. Trước mặt các người quyền cao chức trọng của đế quốc và Giáo hội họp lại, ông được lịnh phải rút lời. Ông đáp rằng mình không thể rút lời chi hết, trừ ra đối với những cái gì Kinh Thánh hoặc lý trí chứng rõ là sai. Ông nói: "Tôi đứng đây; tôi không thể làm chi khác; nguyện Ðức Chúa Trời giúp đỡ tôi!" Ông bị lên án; nhưng rất nhiều vị vương hầu Ðức là bạn hữu ông, nên sắc lịnh lên án ông không thể thi hành. Một người bạn giấu ông đi chừng một năm; rồi ông trở về Wittenberg để tiếp tục công việc giảng thuyết và viết sách. Ngoài nhiều việc khác, ông còn dịch Kinh Thánh ra tiếng Ðức; bản dịch nầy đã "thiêng liêng hóa nước Ðức và tạo nên tiếng Ðức."
Giáo hoàng khai chiến với tín đồ Tin Lành nước Ðức. Nước Ðức gồm rất nhiều tiểu quốc, mỗi tiểu quốc do một vị vương hầu cai trị. Nhiều vị vương hầu ấy và cả nước họ đã theo chánh nghĩa của Luther. Khỏang năm 1540, cả miền Bắc nước Ðức đã theo giáo phái Luthérien. Họ được lịnh trở lại "ràn chiên" La-mã. Nhưng họ lập khối liên minh Smalcald để tự vệ. Giáo hoàng Paul III bèn thúc giục hoàng đế Charles V tiến đánh họ, và cũng hiến cho hoàng đế một đạo quân. Giáo hoàng tuyên bố cuộc chiến tranh nầy là một cuộc viễn chinh của Thập-tự-quân (croisade), và hứa ban phiếu ân xá cho mọi người dự vào đó. Chiến tranh kép dài từ 1546 đến 1555, và kết liễu bằng hòa ước Augsbourg, do đó giáo phái Luthérien được thừa nhận là hợp pháp. Giáo hoàng gây cuộc chiến tranh nầy với mục đích đánh cho giáo phái Luthérien phải đầu phục mình. Ông là người xâm lược, còn giáo phái Luthérien tự vệ.
Danh hiệu "Protestant." Nghị hội Spire (năm 1529), tại đó người Công giáo La-mã chiếm đa số, qui định rằng người Công giáo được phép giảng dạy đạo của họ ở các tiểu quốc thuộc Ðức theo giáo phái Luthérien, nhưng cấm giáo phái Luthérien giảng dạy ở các tiểu quốc thuộc Ðức theo Công giáo. Các vương hầu theo giáo phái Luthérien chánh thức phản đối quyết nghị ấy, và từ đó được gọi là "Protestant" (Kẻ phản đối). Danh hiệu nầy nguyên thủy áp dụng cho giáo phái Luthérien, nhưng nay quen áp dụng cho những người phản đối sự tiếm vị của Giáo hoàng,-- tức là gồm hết thảy đoàn thể tín đồ Tin Lành.
Tại Thụy-sĩ, đất lịch sử của tự do, cuộc Cải chánh đã do Zwingli nhóm lên và Calvin tiếp tục. Năm 1549, các môn đệ của họp lại thành "Hội Thánh Cải chánh." Các cuộc Cải chánh của họ táo bạo hơn của Luther.
Zwingli (1484-1531). Ông sanh trưởng ở thành Zurich; khoảng năm 1516, ông sanh lòng tin quyết rằng Kinh Thánh là phương pháp tẩy uế Giáo hội. Năm 1525, thành Zurich chánh thức tiếp nhận sự giảng dạy của ông, và lần lần bãi bỏ phiếu ân xá, lễ Mi-sa, sự độc thân của hàng giáo phẩm, ảnh tượng và dùng Kinh Thánh làm điển cứ duy nhứt.
Jean Calvin (1509-1564), người Pháp, năm 1533, nhìn nhận sự giảng dạy của phái Cải chánh. Năm 1534, ông bị đuổi khỏi đất Pháp, và năm 1536, tới Genève. Tại đó, trường Ðại học của ông trở thành trung tâm trọng yếu của đạo Tin Lành, hấp dẫn các học giả từ nhiều nước đến. Ông được xưng là "nhà thần học trứ danh hơn hết trong đạo Ðấng Christ." Renan gọi ông là "người giống Ðấng Christ hơn hết trong cả thế hệ mình." Hơn mọi người khác, ông đã hướng dẫn tư tưởng của giới Tin Lành.
Tại Hòa-lan, cuộc Cải chánh sớm được tiếp nhận, trước là giáo lý Luther, sau là giáo lý Calvin. Giáo phái Anabaptiste cũng đã đông đúc. Giữa khoảng 1513 và 1531, đã ấn hành 25 bản dịch Kinh Thánh ra tiếng Hòa-lan, Flamand và Pháp. Hòa-lan là một phần lãnh thổ của Charles V. Năm 1522, vua nầy thiết lập Tôn giáo Pháp đình, và truyền lịnh đốt hết tác phẩm của giáo phái Luthérien. Năm 1525, ông cấm các cuộc hội họp tôn giáo tại đó có đọc Kinh Thánh. Năm 1546, ông cấm in hoặc tàng trữ Kinh Thánh, hoặc bản Vulgate, hoặc bản phiên dịch cũng vậy. Năm 1535, ông ra sắc lịnh "xử thiêu" những người thuộc giáo phái Anabaptiste. Philippe II (1566-1598), người kế vị Charles V, lại công bố các sắc lịnh của cha mình, và với sự trợ giúp của dòng Jésuite, đã tiếp tục bắt bớ hung hăng hơn nữa. Bởi một bản án của Tôn giáo Pháp đình, toàn dân đã bị kết tử hình; dưới đời Charles V và Philippe II, hơn 100 ngàn người đã bị tàn sát cách hung bạo không sao tưởng tượng được. Có kẻ bị xiềng xích vào cây trụ gần đống lửa, và lần lần bị quay chết; có kẻ bị bỏ vào ngục tối, bị đánh đòn, bị tra khảo kinh khủng, rồi mới thiêu chết. Phụ nữ bị chôn sống, bị nhận vào quan tài nhỏ quá, bị kẻ hành quyết giày đạp dưới chơn. Những kẻ toan trốn đi nước khác thì bị quân lính chận bắt và tàn sát. Sau nhiều năm không kháng cự và chịu sự hung tàn không tưởng tượng được, các tín đồ Tin Lành ở Hòa-lan bèn liên hiệp dưới sự lãnh đạo của Guillaume d'Orange, và năm 1572, mở cuộc khởi nghĩa lớn lao. Sau bao nhiêu gian khổ khôn tả xiết, năm 1609, họ dành được độc lập. Hòa-lan ở phía Bắc, theo Tin Lành; còn nước Bỉ ở phía Nam, cứ theo Công giáo. Hòa-lan là nước đầu tiên mở trường công do thuế của dân đài thọ, và hợp thức hóa những nguyên tắc khoan dung tôn giáo cùng tự do báo chí.
Ở miền Scandinavie, giáo lý Luther sớm được truyền bá và trở thành quốc giáo tại Ðan-mạch (1536). Thụy-điển (1539), Na-uy (1540) 100 năm sau, Gustave Adolphe, vua Thụy-điển (1611-1632), gây được thành tích lẫy lừng vì đã đánh bại Giáo hoàng khi ông nầy cố sức đè bẹp nước Ðức theo đạo Tin Lành.
Ở Pháp, năm 1520, giáo lý của Luther truyền bá tới, và chẳng bao lâu, giáo lý của Calvin cũng lan vào. Khoảng năm 1559, có chừng 400.000 tín đồ Tin Lành, mang danh hiệu là "Huguenots." Sự tin kính sốt sắng và đời sống trong sạch của họ khác hẳn với đời sống thấp kém của hàng giáo phẩm La-mã. Năm 1557, Giáo hoàng Pie III thúc giục phải tận diệt họ. Vua ra sắc chỉ tàn sát họ, và truyền lịnh cho hết thảy thần dân trung kiên phải giúp tay tróc nã họ. Dòng Jésuite đi khắp nước Pháp, thuyết phục tín đồ Công giáo hãy cầm khí giới để tiêu diệt họ. Bị các cán bộ của Giáo hoàng săn bắt như vậy, y như thời Dioclétien, họ bèn nhóm họp bí mật, thường là trong hầm, lúc nửa đêm.
Cuộc tàn sát Saint-Barthélemy.-- Hoàng thái hậu Catherine de Médicis là một tín đồ Công giáo sốt sắng và là công cụ đầy thiện chí của Giáo hoàng. Bà ra lịnh, và đêm 24-8-1572, 70 ngàn tín đồ Tin Lành (Huguenots), kể cả phần lớn thủ lãnh của họ, đã bị tàn sát. Tại La-mã, người ta hết vui sướng. Giáo hoàng cùng ban Hồng y Giáo chủ của ông đi kiệu rất long trọng tới nhà thờ San Marco, và truyền lịnh hát bài "Te Deum" (Thánh ca tạ ơn) để cảm tạ Ðức Chúa Trời. Giáo hoàng cho đúc một huy chương để kỷ niệm cuộc tàn sát nầy, và cử một Hồng y Giáo chủ qua Ba-lê để chuyển lời chúc mừng của Giáo hoàng và các Hồng y Giáo chủ tới vua và hoàng thái hậu. Ông Thomas Carlyle nói rằng: "Thiếu điều cả nước Pháp thật đã theo đạo Tin Lành; nhưng nước Pháp đã tàn sát đạo Tin Lành(1) trong đêm Saint-Barthélemy, năm 1572. Vậy nên năm 1792, tại Pháp lại có một cuộc phản đối (Trong tiếng Anh, hai chữ nầy gần giống nhau (Protestantism, protest)) khác" (chỉ về sự tuyên bố Cộng hòa Pháp).
Các cuộc chiến tranh Huguenot.-- Sau cuộc tàn sát Saint-Barthélemy, người Huguenots hiệp nhau lại và võ trang để kháng cự. Rốt lại, năm 1598, do sắc chỉ Nantes, họ được quyền tự do tín ngưỡng và thờ phượng. Nhưng giữa khoảng 1572 và 1598, 200.000 người Huguenots đã tuận đạo. Giáo hoàng Clément VIII gọi sắc chỉ Nantes khoan dung tôn giáo là "một vật đáng rủa sả;" và sau bao nhiêu năm công tác bí mật của dòng Jésuite, sắc chỉ nầy bị bãi bỏ, năm 1685; 500.000 người Huguenots bèn trốn qua các nước theo đạo Tin Lành.
Cuộc cách mạng Pháp xảy ra 100 năm sau (1789), là một cuộc đảo lộn kinh khủng nhứt trong lịch sử. Trong lúc điên cuồng căm giận những sự tàn ác của giai cấp cầm quyền (trong đó có giới phẩm chức Giáo hội chiếm hữu một phần ba đất đai, vừa giàu có, biếng nhác, hủ hoại, vừa nhẫn tâm đối với kẻ nghèo), nhân dân bèn dấy lên, gây cảnh khủng khiếp và đổ máu, bãi bỏ chánh phủ, đóng cửa nhà thờ, tịch thâu tài sản của Giáo hội, tiêu trừ đạo Ðấng Christ và Chúa nhựt, tôn nữ thần Lý trí lên ngôi (thể hiện bằng một người đàn bà phóng đãng). Nã-phá-luân khôi phục Giáo hội, nhưng không khôi phục tài sản của nó. Năm 1802, ông ban bố sự khoan dung tôn giáo cho mọi người; và ông hầu đã kết liễu quyền hành chánh trị của Giáo hoàng ở khắp mọi nước.
Tại xứ Bohême, khoảng năm 1600, trong số 4 triệu dân, 80 phần 100 theo đạo Tin Lành. Khi triều đại Habsbourg và dòng Jésuite làm xong công việc của họ, thì chỉ còn lại 800 ngàn người, và hết thảy là Công giáo.
Ở Áo và Hung, quá nửa dân chúng theo đạo Tin Lành, nhưng do tay triều đại Habsbourg và dòng Jésuite, họ đã bị tàn sát.
Ở Ba-lan, khoảng cuối thế kỷ thứ 16, dường như Công giáo sắp bị quét sạch trơn trọi, song tại đây, dòng Jésuite cũng dùng sự bắt bớ mà giết chết cuộc Cải chánh.
Ở Ý, chính quê hương của Giáo hoàng, cuộc Cải chánh chiếm được địa vị vững vàng; nhưng Tôn giáo Pháp đình hoạt động không ngớt, nên đạo Tin Lành hầu như chẳng còn một vết tích gì.
Tại Tây-ban-nha, cuộc Cải chánh không bao giờ tấn bộ được, vì Tôn giáo Pháp đình đã có ở đó. Một bàn tay tàn nhẫn đã đè bẹp mọi sự cố gắng giành quyền tự do hoặc tư tưởng độc lập. Torquemada (1420-1498), một tu sĩ dòng Dominicain, đứng đầu bọn thẩm phán Tôn giáo Pháp đình, trong 18 năm, đã thiêu chết 10.200 người và bỏ tù chung thân 97.000 người. Các nạn nhân thường bị thiêu sống ở công trường; đó là cơ hội cho giới tôn giáo ăn mừng. Từ 1481 đến 1808, có rất ít là 100.000 người bị giết và 1 triệu rưỡi người bị lưu đày. "Trong thế kỷ thứ 16 và 17, Tôn giáo Pháp đình dập tắt sự sanh hoạt văn chương ở Tây-ban-nha, và hầu như loại nước ấy ra khỏi nền văn minh Âu-châu." Khi cuộc Cải chánh nhóm lên, thì Tây-ban-nha là nước hùng mạnh nhứt thế giới. Ðịa vị lu mờ hiện tại của Tây-ban-nha ở giữa các dân chứng tỏ chế độ Giáo hoàng có thể làm gì cho một nước.
Hải quân Tây-ban-nha (1588) gọi là "Armada." Một đặc điểm của chiến lược dòng Jésuite là tìm cách lật đổ các nước theo đạo Tin Lành. Giáo hoàng Grégoire XIII "chẳng từ chút gì để thúc đẩy Philippe II, hoàng đế Tây-ban-nha, khai chiến với nước Anh theo đạo Tin Lành." Sixte V lên ngôi Giáo hoàng lúc kế hoạch nầy gần thực hiện, và ông gọi nó là một cuộc viễn chinh của Thập-tự-quân (croisade), nghĩa là ông tặng phiếu ân xá cho những kẻ dự chiến. Lúc đó, Tây-ban-nha có hải quân hùng mạnh nhứt từng ở trên mặt biển; nhưng "Armada" kiêu hãnh đã bị thảm bại ở eo biển Manche. "Cuộc đắc thắng của nước Anh là chỗ rẽ cuối cùng trong cuộc đấu kiếm vĩ đại giữa đạo Tin Lành và đạo La-mã; nó chẳng những giữ vững nước Anh và xứ Tô-cách-lan cho chánh nghĩa Tin Lành, song cũng giữ Hòa-lan, miền Bắc nước Ðức, Ðan-mạch, Thụy-điển, Na-uy nữa."
Ở nước Anh, cuộc khởi nghĩa đi trước, cuộc Cải chánh theo sau. Từ thời Guillaume le Conquérant (1066), đã có nhiều lần người Anh phản đối việc Giáo hoàng kiểm soát nước Anh. Henri VIII (1509-1547) tin như các vị tiền bối của mình rằng Hội Thánh Anh quốc phải độc lập đối với Giáo hoàng, và vua phải là đầu (thủ lãnh) của Hội Thánh ấy. Vụ ly dị của ông vua nầy không phải là nguyên nhân, mà là cơ hội để ông ly khai với Giáo hội La-mã. Henri không phải là bậc thánh, nhưng Giáo hoàng đồng thời với ông, là Paul III, cũng chẳng phải là bậc thánh, vì ông có rất nhiều con không chánh thức. Năm 1534, Hội Thánh Anh quốc dứt khoát chối bỏ quyền hành của Giáo hoàng, và tự tạo một đời sanh hoạt độc lập dưới sự lãnh đạo tinh thần của Tổng giám mục ở Canterbury, còn Henri VIII nhận tước vị là "Thủ lãnh Tối cao" để điều khiển các việc đời nầy và các mối liên lạc chánh trị của nước Anh. Thomas Cranmer là Tổng giám mục ở Canterbury, và cuộc Cải chánh bắt đầu dưới đời ông nầy. Các tu viện bị hủy bỏ, viện cớ nó hủ hoại. Kinh Thánh tiếng Anh được đặt ở các nhà thờ, và có quyển Cầu nguyện để dùng trong các cuộc thờ phượng bằng tiếng Anh; các chi hội cổi bỏ nhiều tục lệ của La-mã giáo. Dưới đời trị vì kế tiếp của Edouard VI (1547-1553), cuộc Cải chánh tấn bộ rất nhiều. Nhưng Nữ hoàng Mary khát máu (1553-1558) quyết cố gắng khôi phục La-mã giáo, và dưới đời trị vì của bà, nhiều tín đồ Tin Lành đã tuận đạo, trong số ấy có Latimer, Ridley và Cranmer. Dưới đời trị vì của Nữ hoàng Elizabeth (1558-1603), dân chúng lại được quyền tự do, và Hội Thánh Anh quốc được tái lập dưới hình thức còn đến ngày nay. Từ Hội Thánh Anh quốc đã phát xuất các giáo phái Puritain (Thanh giáo) và Méthodiste (Giám lý).
Ở xứ Tô-cách-lan vẫn còn ảnh hưởng của Wicliff. Khoảng 1528, giáo lý của Luther truyền bá tới đây, và giáo lý của Calvin theo sau. Truyện tích Cải chánh ở Tô-cách-lan chính là truyện tích John Knox.
John Knox (1515-1572) là một Linh mục Tô-cách-lan; khoảng năm 1540, ông bắt đầu dạy những tưởng Cải chánh. Năm 1547, ông bị quân đội Pháp bắt giải qua Pháp, tại đây ông làm tôi mọi trên một chiến thuyền suốt 19 tháng. Do ảnh hưởng của chánh phủ Anh, ông được thả ra, và năm 1549, ông trở về nước Anh, tiếp tục giảng dạy. Khi Nữ hoàng Mary khát máu lên ngôi năm 1553, ông đi qua Genève, tại đây ông hoàn toàn tiếp nhận giáo lý của Calvin. Năm 1559, Nghị viện của các vương hầu Tô-cách-lan triệu ông về xứ để làm thủ lãnh phong trào cải cách quốc gia. Tình hình chính trị khiến cuộc cải cách Hội Thánh và nền độc lập quốc gia trở thành MộT phong trào. Mary, nữ hoàng Tô-cách-lan, đã lấy Francois II, vua Pháp, là con trai của Catherine de Médicis (nổi danh vì cuộc tàn sát Saint Barthélemy). Như vậy, Tô-cách-lan và Pháp là thông gia, và ngôi vua của họ liên kết với nhau vì cuộc hôn nhân. Chánh quyền nước Pháp có ý tiêu diệt đạo Tin Lành. Philippe II, vua Tây-ban-nha, và nhiều người Công giáo khác toan mưu sát nữ hoàng Elizabeth để đặt Mary, nữ hoàng Tô-cách-lan, lên ngôi nước Anh. Giáo hoàng Pie V ủng hộ mưu chước ấy bằng cách ra sắc lịnh dứt phép thông công Elizabeth và giải phóng thần dân của bà khỏi phục tòng bà nữa (theo giáo lý của dòng Jésuite, thì đó có nghĩa là kẻ giết bà sẽ có một hành động hầu việc Ðức Chúa Trời). Như vậy, đang khi Hội Thánh Tô-cách-lan ở dưới sự kiểm soát của Pháp, thì không thể nào cải chánh được. John Knox tin rằng tương lai của đạo Tin Lành tùy thuộc một cuộc liên minh giữa nước Anh theo đạo Tin Lành và xứ Tô-cách-lan theo đạo Tin Lành. Ông tự tỏ ra là một bậc lãnh tụ kỳ diệu. Hội Thánh Cải chánh thành lập năm 1560; và với sự giúp đỡ của nước Anh, khoảng năm 1567, quân Pháp đã bị đánh đuổi; La-mã giáo đã bị quét sạch trơn trọi hơn là ở bất cứ nước nào khác. John Knox đã dự phần lớn tạo nên xứ Tô-cách-lan, tới ngày nay vẫn còn y nguyên vậy.
Cuộc Phản cải chánh.-- Trong 50 năm, cuộc Cải chánh đã nắm chặt Âu-châu, gồm phần lớn nước Ðức, Thụy-sĩ, Hòa-lan, Thụy-điển, Na-uy, Anh, Tô-cách-lan, xứ Bohême, Áo, Hung, Ba-lan, và tiến mạnh tới Pháp. Ðó là một đòn kinh khủng cho Giáo hội La-mã, và đến phiên Giáo hội nầy tổ chức cuộc Phản cải chánh. Nhờ Giáo hội nghị Trente (họp 18 năm, từ 1545 đến 1563), dòng Jésuite và Tôn giáo Pháp đình, một số điều quá lạm tinh thần của chế độ Giáo hoàng đã bị bãi bỏ. Khoảng cuối thế kỷ nầy, La-mã đã được tổ chức để tấn công đạo Tin Lành; dưới sự lãnh đạo xuất sắc và tàn ác của dòng Jésuite, La-mã chiếm lại được nhiều đất đai đã mất, tức là miền nam nước Ðức, xứ Bohême, Áo, Hung, Ba-lan, Bỉ, và đè bẹp cuộc Cải chánh ở pháp. Trong vòng 100 năm, khoảng 1689, cuộc Phản cải chánh đã tung ra hết lực lượng. Các vua chúa nòng cốt đã đánh trận cho Giáo hoàng là: Charles V (1519-1556), vua Tây-ban-nha, đánh tín đồ Tin Lành ở Ðức; Philippe II (1556-1598), vua Tây-ban-nha, chống Hòa-lan và Anh; Ferdinand II (1619-1637), vua Áo, đánh người xứ Bohême (ba ông nầy là hoàng đế của đế quốc La-mã thánh); Cathérine de Médicis, mẹ của ba vua nước Pháp, là Francois II (1559-1560), Charles IX (1560-1574), và Henri III (1574-1589), đã đánh trận để tuyệt diệt người Huguenots.
Các cuộc chiến tranh tôn giáo.-- Theo sau phong trào Cải chánh có 100 năm chiến tranh tôn giáo: 1) Chiến tranh chống tín đồ Tin Lành ở Ðức (1546-1555); 2) Chiến tranh chống tín đồ Tin Lành ở Hòa-lan;(1566-1609); 3) Chiến tranh chống người Huguenots ở Pháp (1572-1598); 4) Vua Philippe mưu chống nước Anh (1588); 5) Chiến tranh 30 năm (1618-1648). Trong những cuộc chiến tranh nầy cũng có xen vào sự cạnh tranh chánh trị và quốc gia, luôn với những vấn đề tài sản, vì Giáo hội ở nhiều nước chiếm từ 1 phần 5 đến 1 phần 3 tất cả đất đai. Nhưng cuộc chiến tranh nào cũng GÂY RA bởi các vua Công giáo, do Giáo hoàng và dòng Jésuite thúc đẩy, cốt để đè bẹp đạo Tin Lành. Họ là kẻ xâm lăng, còn tín đồ Tin Lành chỉ tự vệ. Sau nhiều năm chịu bắt bớ, tín đồ Tin Lành ở Hòa-lan, Ðức và Pháp mới trở thành đảng chánh trị.
Cuộc chiến tranh 30 năm (1618-1648). Khoảng năm 1580, tại xứ Bohême và Hung, tín đồ Tin Lành chiếm đa số và gồm hầu hết các vị vương hầu có đất đai. Hoàng đế Ferdinand II, thuộc triều đại Hasbourg, đã do dòng Jésuite giáo dục; và nhờ họ giúp đỡ, ông đã mưu toan tiêu diệt đạo Tin Lành. Tín đồ Tin Lành bèn hiệp lại để kháng cự. Phần đầu cuộc chiến tranh (1618-1629), thì Công giáo thắng; họ trục xuất được đạo Tin Lành khỏi hết thảy quốc gia theo Công giáo. Ðoạn, họ quyết định đem các tiểu quốc Tin Lành ở Ðức trở lại Công giáo. Gustave-Adolphe, vua Thụy-điển, nhận thấy rằng nếu nước Ðức theo Tin Lành sụp đổ, thì Thụy-điển cũng sụp đổ và có lẽ đạo Tin Lành không còn nữa. Ông bèn xông vào vòng chiến, và quân đội ông đã thắng (1630-1632). Ông đã cứu được chánh nghĩa Tin Lành. Phần cuối cuộc chiến tranh nầy (1632-1648) đại để là cuộc vật lộn giữa Pháp và triều đại Habsbourg, và kết quả là Pháp trở thành cường quốc bá chủ Âu-châu. Cuộc chiến tranh 30 năm khởi đầu là một cuộc chiến tranh tôn giáo, và kết liễu là một cuộc chiến tranh chánh trị. Kết cuộc từ 10 đến 20 triệu người đã bỏ mạng. Ferdinand II do người Jésuite giáo dục đã gây cuộc chiến tranh nầy với mục đích đè bẹp đạo Tin Lành. Nó kết liễu bằng hòa ước Wetphalie, năm 1648, ấn định giới hạn giữa các quốc gia Công giáo và các quốc gia Tin Lành.
Các cơn bắt bớ của Giáo hoàng.-- Số người tuận đạo trong các cơn bắt bớ của Giáo hoàng còn đông bội phần hơn số người tuận đạo trong Hội Thánh đầu tiên, dưới tay đế quốc La-mã. Hàng trăm ngàn người thuộc phái Albigeois, Vaudois và tín đồ Tin Lành ở Ðức, Hòa-lan, xứ Bohême và nhiều nước khác đã bỏ mình. Quả thật, "Kẻ tà dâm... say huyết các thánh đồ" (Khải Huyền 17:5, 6). Trong vấn đề nầy, người ta thường bào chữa cho các Giáo hoàng rằng đó là "tinh thần của thời đại" và "người Tin Lành cũng bắt bớ." "Về "tinh thần của thời đại," thì thời đại của ai đó? và ai đã tạo nên thời đại như vậy? Của các Giáo hoàng, và các Giáo hoàng đã tạo nên nó như vậy. Ấy là thế giới của họ. Trải qua 1000 năm, họ đã huấn luyện thế giới để phục tòng họ. Nếu các Giáo hoàng không giựt Kinh Thánh khỏi dân chúng, thì dân chúng hẳn đã biết nhiều hơn, và "tinh thần của thời đại" sẽ Chẳng như vậy. Ðó Chẳng Phải là tinh thần của Ðấng Christ, và "những người đại diện Ðấng Christ" đáng phải biết rõ hơn. Sự bắt bớ là tinh thần của Ma Quỉ, mặc dầu họ đã nhơn Danh Ðấng Christ mà bắt bớ.
Những cơn bắt bớ do tín đồ Tin Lành.-- Calvin đã bằng lòng xử tử Servet. Tại Hòa-lan, giáo phái Calviniste đã xử tử một người xứ [1]c-mê-ni. Tại Ðức, giáo phái Luthérien đã xử tử một ít người Anabaptiste. Tại nước Anh, vua Edouard VI, theo đạo Tin Lành, trong vòng 6 năm, đã thiêu chết 2 người Công giáo (trong 5 năm sau đó, nữ hoàng Mary, theo Công giáo, thiêu chết 282 tín đồ Tin Lành). Trong vòng 45 năm, nữ hoàng Elizabeth đã xử tử 187 người Công giáo, phần đông vì tội phản loạn, chớ không vì theo tà giáo. Năm 1659, tại tiểu bang Massachusetts (Mỹ), 3 người thuộc giáo phái Quaker đã bị giáo phái Thanh giáo (Puritain) treo cổ chết. Năm 1692, 20 người Quakers bị xử tử vì làm tà thuật. Tổng cộng, chỉ có vài trăm, hoặc nhiều lắm là 1, 2 ngàn người tuận đạo vì tay tín đồ Tin Lành; nhưng Công giáo đã giết hàng bao nhiêu triệu tín đồ Tin Lành, kể không xiết. Dầu cuộc Cải chánh là một cuộc tranh đấu vĩ đại để giành quyền tự do tín ngưỡng, nhưng các nhà Cải chánh đã chậm ban cho kẻ khác cái mà chính mình họ tìm kiếm. Tuy nhiên, nguyên tắc căn bản của phong trào họ là chống sự bắt bớ để giành quyền tự do tín ngưỡng. Luther nói rằng: "Chúng ta hãy Lý Luận để giải quyết tình trạng nầy." Giáo hoàng đáp lại: "Hãy Ðầu Phục, bằng không, sẽ bị thiêu chết." Mặc dầu đây, đó, chính các nhà Cải chánh tỏ ra dấu tích không khoan dung tôn giáo của Giáo hội La-mã, nhưng họ dạy rằng đạo Ðấng Christ phải được truyền bá hoàn toàn và tuyệt đối bởi những phương pháp trí thức, đạo đức và thiêng liêng. Còn tư tưởng của Giáo hội La-mã thời ấy là: Dùng võ lực, khí giới của đời nầy và Chiến Tranh để làm cho người ta trở lại đạo. Trong các nước theo đạo Tin Lành, sự bắt bớ đã chấm dứt khoảng năm 1700.
Giáo dục quần chúng.-- Trong sự nghiệp của Luther có một đặc điểm, là ông nhấn mạnh vào nền giáo dục quần chúng. Giáo hội La-mã đã cai trị thế giới 1000 năm, nhưng đa số quần chúng không biết đọc, biết viết. Trong các xứ theo Công giáo, sự dốt nát của quần chúng vẫn còn ở mực độ cao,-- ấy là so sánh các nước theo đạo Tin Lành. Mục biểu dưới đây ghi rõ bao nhiêu phần trăm dân số một nước còn Thất Học.
Argentine (1895) ................ 54 Hòa-lan (1900) .................... 4
Úc-đại-lợi (1921) .............. 1, 5 Hung (1910) ...................... 33
Áo (1910) ......................... 19 Ấn-độ (1921) ..................... 93
Bỉ (1910) .......................... 13 Ái-nhĩ-lan (1911) .............. 17
Ba-tây (1890) .................... 85 Ý (1911) ........................... 38
Bảo (1905) ........................ 66 Mễ-tây-cơ (1910) ............... 70
Gia-nã-đại (1921) ................ 6 Phi-luật-tân (1903) ............ 56
Trung-hoa ......................... 80 Bồ-đào-nha (1911) ............. 69
Chili (1907) ....................... 50 Lỗ-mã-ni (1909) ................. 61
Ai-cập (1917...................... 92 Nga (1897) ....................... 69
Anh (1910) ......................... 6 Tô-cách-lan (1900) ............... 4
Pháp (1906) ...................... 14 Tây-ban-nha (1920) ........... 46
Ðức (1900) ....................... 0.1 Thụy-sĩ (1900) .................. 0.3
Hi-lạp (1907) ..................... 57 Mỹ (1920) ........................... 6
Dầu trong mấy năm gần đây, hầu hết các nước đã cưỡng bách giáo dục và nạn mù chữ lần lần biến mất, nhưng mục biểu trên đây tỏ ra trí tuệ quần chúng đã được mở mang dưới chế độ nào.
Hai nền văn minh.-- trải qua 300 năm , ở Tây phương có hai nền văn minh rất rõ rệt, một là: nền văn minh Tin Lành,chủ trương mở Kinh Thánh cho mọi người đọc, bình dân giáo dục, thiết lập các cơ cấu dân chủ, cải cách xã hội, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận; nền văn minh nầy chiếm ưu thế ở Ðức, Thụy-điển, Na-uy, Ðan-mạch, Anh, Tô-cách-lan, Mỹ, Gia-nã-đại. Hai là: Nền văn minh Công Giáo La Mã, nhìn nhận các sự kiện trên đây, nhưng không quyết định thực hiện; nền văn minh nầy chiếm ưu thế ở Ý, Tây-ban-nha, Mễ-tây-cơ, Nam-mỹ-châu. Hai Nền Văn Minh Tự Nói Lên Giá Trị Của Nó.
http://www.vietchristian.com/kinhthanh/reader.asp?pid=,src=/kinhthanh/tklk/tklk.xml,name=Chuong,enc=2,nl=0,id=0
Martin Luther (1483-1546) đứng đầu hàng vĩ nhân của mọi thời đại, sau Ðức Chúa Jêsus và Phao-lô. Ông lãnh đạo thế giới trong cuộc nổi dậy giành tự do, thoát khỏi chế độ chuyên chế hơn hết trong lịch sử. "Ông là nhà sáng lập nền văn minh Tin Lành." Ông sanh năm 1483, tại thành Eisleben, trong một gia đình nghèo. Năm 1501, ông vào trường Ðại học Erfurt để học luật khoa. Ông là "một sanh viên xuất sắc, hay nói chuyện và tranh luận, rất có tài xã giao và âm nhạc." Ông tốt nghiệp sau một thời gian hết sức ngắn ngủi. Năm 1506, ông thình lình quyết định vào tu viện. Là một tu sĩ gương mẫu và rất sùng đạo, ông đã kiêng ăn và tự khảo đả đủ cách; ông cũng tự đặt ra nhiều cách khảo đả mới mẻ. Theo lời ông nói, suốt hai năm ông chịu "nỗi thống khổ không bút nào tả xiết." Một ngày kia trong năm 1508, đang khi đọc thơ Rô-ma, ông thình lình được soi sáng và được bình an: "Người công bình sẽ sống bởi đức tin " (Rô-ma 1:17). Rốt lại, ông thấy rằng phải được cứu rỗi bởi tin cậy Ðức Chúa Trời qua Ðấng Christ, chớ chẳng phải bởi nghi lễ, phép bí tích và phép khổ hạnh của Giáo hội. Sự thấy nầy đã thay đổi cả cuộc đời ông và Cả Dòng Lịch Sử." Dầu sự phát minh của ông làm cho một Giáo hội dưới quyền thầy cả không cần thiết nữa, nhưng ông không lập tức nhìn biết như vậy." Ông vẫn còn chịu nhận mọi tục lệ của Giáo hội, lễ Mi-sa, thánh tích, phiếu ân xá, sự hành hương (pèlerinage) và quyền hành của Giáo hoàng. Năm 1508, ông làm giáo sư tại trường Ðại học Wittenberg, và cứ giữ địa vị ấy cho đến khi qua đời, năm 1546. Năm 1511, ông tới thành La-mã, và dầu thất kinh trước sự bại hoại, hư xấu của triều đình Giáo hoàng, ông cũng vẫn nhìn nhận quyền hành của Giáo hội. Ông trở về Wittenberg, và các bài ông giảng về Kinh Thánh bắt đầu hấp dẫn các sanh viên từ mọi phương nước Ðức.
Phiếu ân xá.-- Việc Tetzel bán phiếu ân xá là cơ hội cho Luther ly khai với Giáo hội La-mã. Phiếu ân xá là bản giảm nhẹ sự đau đớn ở nơi luyện tội, tức là tha cho khỏi bị hình phạt vì tội lỗi. Theo giáo lý của Giáo hội La-mã, thì nơi luyện tội gần giống như địa ngục, duy nó không kéo lâu dài như vậy; mọi người phải trải qua nơi luyện tội. Nhưng Giáo hoàng tự nhận có quyền giảm bớt hoặc miễn hết sự đau đớn ấy, và đặc quyền ấy thuộc riêng về Giáo hoàng. Phiếu ân xá bắt đầu đương thời các Giáo hoàng Pascal I (817-824) và Jean VIII (872-882). Người ta thấy phiếu ân xá của Giáo hoàng có lợi bội phần, và chẳng bao lâu, nó được sử dụng cùng khắp. Họ cấp phiếu ân xá để xui giục người ta dự cuộc viễn chinh của Thập-tự-quân, dự cuộc chiến tranh chống kẻ theo tà giáo, hoặc chống một vua nào mà Giáo hoàng muốn trừng phạt; cũng cấp cho các chánh thẩm Tôn giáo Pháp đình, hoặc kẻ vác củi để thiêu một người theo tà giáo, hoặc kẻ hành hương tại La-mã, hoặc kẻ đã dự vào một công cuộc công, tư của Giáo hoàng; hoặc cũng ÐEM BÁN LẤY TIỀN.
Năm 1476, Giáo hoàng Sixte VI là người thứ nhứt áp dụng phiếu ân xá cho những linh hồn đã ở nơi luyện tội. Các phiếu ân xá đã được bao thầu và đem bán lẻ. Như vậy, "bán đặc quyền phạm tội" trở thành một nguồn lợi tức chánh yếu của Giáo hoàng. Năm 1517, Jean Tetzel trải qua nước Ðức, bán những chứng chỉ có Giáo hoàng ký tên, hiến sự tha thứ hết tội lỗi cho kẻ mua và bạn bè họ, không cần phải xưng tội, ăn năn, khổ hạnh, hoặc được thầy cả xá miễn cho. Hắn nói với dân chúng rằng: "Ngay khi đồng tiền của các ngươi kêu keng trong thùng nầy, thì linh hồn của bạn hữu các ngươi được từ nơi luyện tội thẳng tới Thiên đàng." Luther lấy thế làm kinh tởm.
95 luận đề.-- Ngày 31-10-1517, tại cửa nhà thờ Wittenberg, Luther niêm yết 95 luận đề, hầu hết liên quan đến phiếu ân xá, nhưng cốt là đả kích quyền hành của Giáo hoàng. Ðó chỉ là lời rao rằng ông sẵn lòng tranh luận các vấn đề ấy tại trường Ðại học. Nhưng khắp nước Ðức, người ta hăm hở tìm kiếm bản in các luận đề ấy. Nó tự chứng tỏ là "cái tàn lửa làm cho cả Âu-châu bùng cháy." Truyền đơn nầy theo sau truyền đơn kia, bằng tiếng La-tinh cho bậc trí thức, và bằng tiếng Ðức cho thường dân. Khoảng năm 1520, Luther đã trở nên người được dân chúng hoan nghinh nhứt nước Ðức.
Luther bị dứt phép thông công.-- Năm 1520, Giáo hoàng ra sắc lịnh dứt phép thông công Luther, và tuyên bố rằng nếu trong vòng 60 ngày, ông không chịu rút lời, thì sẽ phải chịu "sự hình phạt dành cho kẻ theo tà giáo" (tức là tử hình). Khi Luther nhận được sắc lịnh ấy, ông đã công khai đốt nó đi (10-12-1520). Ông Nichols nói rằng: "Ngày ấy, một thời đại mới trong lịch sử đã mở đầu."
Nghị nội Worms (1521). Luther bị Charles V, hoàng đế của đế quốc La-mã thánh (đương thời ấy gồm Ðức, Tây-ban-nha, Hòa-lan và Áo), đòi phải ứng hầu trước nghị hội Worms. Trước mặt các người quyền cao chức trọng của đế quốc và Giáo hội họp lại, ông được lịnh phải rút lời. Ông đáp rằng mình không thể rút lời chi hết, trừ ra đối với những cái gì Kinh Thánh hoặc lý trí chứng rõ là sai. Ông nói: "Tôi đứng đây; tôi không thể làm chi khác; nguyện Ðức Chúa Trời giúp đỡ tôi!" Ông bị lên án; nhưng rất nhiều vị vương hầu Ðức là bạn hữu ông, nên sắc lịnh lên án ông không thể thi hành. Một người bạn giấu ông đi chừng một năm; rồi ông trở về Wittenberg để tiếp tục công việc giảng thuyết và viết sách. Ngoài nhiều việc khác, ông còn dịch Kinh Thánh ra tiếng Ðức; bản dịch nầy đã "thiêng liêng hóa nước Ðức và tạo nên tiếng Ðức."
Giáo hoàng khai chiến với tín đồ Tin Lành nước Ðức. Nước Ðức gồm rất nhiều tiểu quốc, mỗi tiểu quốc do một vị vương hầu cai trị. Nhiều vị vương hầu ấy và cả nước họ đã theo chánh nghĩa của Luther. Khỏang năm 1540, cả miền Bắc nước Ðức đã theo giáo phái Luthérien. Họ được lịnh trở lại "ràn chiên" La-mã. Nhưng họ lập khối liên minh Smalcald để tự vệ. Giáo hoàng Paul III bèn thúc giục hoàng đế Charles V tiến đánh họ, và cũng hiến cho hoàng đế một đạo quân. Giáo hoàng tuyên bố cuộc chiến tranh nầy là một cuộc viễn chinh của Thập-tự-quân (croisade), và hứa ban phiếu ân xá cho mọi người dự vào đó. Chiến tranh kép dài từ 1546 đến 1555, và kết liễu bằng hòa ước Augsbourg, do đó giáo phái Luthérien được thừa nhận là hợp pháp. Giáo hoàng gây cuộc chiến tranh nầy với mục đích đánh cho giáo phái Luthérien phải đầu phục mình. Ông là người xâm lược, còn giáo phái Luthérien tự vệ.
Danh hiệu "Protestant." Nghị hội Spire (năm 1529), tại đó người Công giáo La-mã chiếm đa số, qui định rằng người Công giáo được phép giảng dạy đạo của họ ở các tiểu quốc thuộc Ðức theo giáo phái Luthérien, nhưng cấm giáo phái Luthérien giảng dạy ở các tiểu quốc thuộc Ðức theo Công giáo. Các vương hầu theo giáo phái Luthérien chánh thức phản đối quyết nghị ấy, và từ đó được gọi là "Protestant" (Kẻ phản đối). Danh hiệu nầy nguyên thủy áp dụng cho giáo phái Luthérien, nhưng nay quen áp dụng cho những người phản đối sự tiếm vị của Giáo hoàng,-- tức là gồm hết thảy đoàn thể tín đồ Tin Lành.
Tại Thụy-sĩ, đất lịch sử của tự do, cuộc Cải chánh đã do Zwingli nhóm lên và Calvin tiếp tục. Năm 1549, các môn đệ của họp lại thành "Hội Thánh Cải chánh." Các cuộc Cải chánh của họ táo bạo hơn của Luther.
Zwingli (1484-1531). Ông sanh trưởng ở thành Zurich; khoảng năm 1516, ông sanh lòng tin quyết rằng Kinh Thánh là phương pháp tẩy uế Giáo hội. Năm 1525, thành Zurich chánh thức tiếp nhận sự giảng dạy của ông, và lần lần bãi bỏ phiếu ân xá, lễ Mi-sa, sự độc thân của hàng giáo phẩm, ảnh tượng và dùng Kinh Thánh làm điển cứ duy nhứt.
Jean Calvin (1509-1564), người Pháp, năm 1533, nhìn nhận sự giảng dạy của phái Cải chánh. Năm 1534, ông bị đuổi khỏi đất Pháp, và năm 1536, tới Genève. Tại đó, trường Ðại học của ông trở thành trung tâm trọng yếu của đạo Tin Lành, hấp dẫn các học giả từ nhiều nước đến. Ông được xưng là "nhà thần học trứ danh hơn hết trong đạo Ðấng Christ." Renan gọi ông là "người giống Ðấng Christ hơn hết trong cả thế hệ mình." Hơn mọi người khác, ông đã hướng dẫn tư tưởng của giới Tin Lành.
Tại Hòa-lan, cuộc Cải chánh sớm được tiếp nhận, trước là giáo lý Luther, sau là giáo lý Calvin. Giáo phái Anabaptiste cũng đã đông đúc. Giữa khoảng 1513 và 1531, đã ấn hành 25 bản dịch Kinh Thánh ra tiếng Hòa-lan, Flamand và Pháp. Hòa-lan là một phần lãnh thổ của Charles V. Năm 1522, vua nầy thiết lập Tôn giáo Pháp đình, và truyền lịnh đốt hết tác phẩm của giáo phái Luthérien. Năm 1525, ông cấm các cuộc hội họp tôn giáo tại đó có đọc Kinh Thánh. Năm 1546, ông cấm in hoặc tàng trữ Kinh Thánh, hoặc bản Vulgate, hoặc bản phiên dịch cũng vậy. Năm 1535, ông ra sắc lịnh "xử thiêu" những người thuộc giáo phái Anabaptiste. Philippe II (1566-1598), người kế vị Charles V, lại công bố các sắc lịnh của cha mình, và với sự trợ giúp của dòng Jésuite, đã tiếp tục bắt bớ hung hăng hơn nữa. Bởi một bản án của Tôn giáo Pháp đình, toàn dân đã bị kết tử hình; dưới đời Charles V và Philippe II, hơn 100 ngàn người đã bị tàn sát cách hung bạo không sao tưởng tượng được. Có kẻ bị xiềng xích vào cây trụ gần đống lửa, và lần lần bị quay chết; có kẻ bị bỏ vào ngục tối, bị đánh đòn, bị tra khảo kinh khủng, rồi mới thiêu chết. Phụ nữ bị chôn sống, bị nhận vào quan tài nhỏ quá, bị kẻ hành quyết giày đạp dưới chơn. Những kẻ toan trốn đi nước khác thì bị quân lính chận bắt và tàn sát. Sau nhiều năm không kháng cự và chịu sự hung tàn không tưởng tượng được, các tín đồ Tin Lành ở Hòa-lan bèn liên hiệp dưới sự lãnh đạo của Guillaume d'Orange, và năm 1572, mở cuộc khởi nghĩa lớn lao. Sau bao nhiêu gian khổ khôn tả xiết, năm 1609, họ dành được độc lập. Hòa-lan ở phía Bắc, theo Tin Lành; còn nước Bỉ ở phía Nam, cứ theo Công giáo. Hòa-lan là nước đầu tiên mở trường công do thuế của dân đài thọ, và hợp thức hóa những nguyên tắc khoan dung tôn giáo cùng tự do báo chí.
Ở miền Scandinavie, giáo lý Luther sớm được truyền bá và trở thành quốc giáo tại Ðan-mạch (1536). Thụy-điển (1539), Na-uy (1540) 100 năm sau, Gustave Adolphe, vua Thụy-điển (1611-1632), gây được thành tích lẫy lừng vì đã đánh bại Giáo hoàng khi ông nầy cố sức đè bẹp nước Ðức theo đạo Tin Lành.
Ở Pháp, năm 1520, giáo lý của Luther truyền bá tới, và chẳng bao lâu, giáo lý của Calvin cũng lan vào. Khoảng năm 1559, có chừng 400.000 tín đồ Tin Lành, mang danh hiệu là "Huguenots." Sự tin kính sốt sắng và đời sống trong sạch của họ khác hẳn với đời sống thấp kém của hàng giáo phẩm La-mã. Năm 1557, Giáo hoàng Pie III thúc giục phải tận diệt họ. Vua ra sắc chỉ tàn sát họ, và truyền lịnh cho hết thảy thần dân trung kiên phải giúp tay tróc nã họ. Dòng Jésuite đi khắp nước Pháp, thuyết phục tín đồ Công giáo hãy cầm khí giới để tiêu diệt họ. Bị các cán bộ của Giáo hoàng săn bắt như vậy, y như thời Dioclétien, họ bèn nhóm họp bí mật, thường là trong hầm, lúc nửa đêm.
Cuộc tàn sát Saint-Barthélemy.-- Hoàng thái hậu Catherine de Médicis là một tín đồ Công giáo sốt sắng và là công cụ đầy thiện chí của Giáo hoàng. Bà ra lịnh, và đêm 24-8-1572, 70 ngàn tín đồ Tin Lành (Huguenots), kể cả phần lớn thủ lãnh của họ, đã bị tàn sát. Tại La-mã, người ta hết vui sướng. Giáo hoàng cùng ban Hồng y Giáo chủ của ông đi kiệu rất long trọng tới nhà thờ San Marco, và truyền lịnh hát bài "Te Deum" (Thánh ca tạ ơn) để cảm tạ Ðức Chúa Trời. Giáo hoàng cho đúc một huy chương để kỷ niệm cuộc tàn sát nầy, và cử một Hồng y Giáo chủ qua Ba-lê để chuyển lời chúc mừng của Giáo hoàng và các Hồng y Giáo chủ tới vua và hoàng thái hậu. Ông Thomas Carlyle nói rằng: "Thiếu điều cả nước Pháp thật đã theo đạo Tin Lành; nhưng nước Pháp đã tàn sát đạo Tin Lành(1) trong đêm Saint-Barthélemy, năm 1572. Vậy nên năm 1792, tại Pháp lại có một cuộc phản đối (Trong tiếng Anh, hai chữ nầy gần giống nhau (Protestantism, protest)) khác" (chỉ về sự tuyên bố Cộng hòa Pháp).
Các cuộc chiến tranh Huguenot.-- Sau cuộc tàn sát Saint-Barthélemy, người Huguenots hiệp nhau lại và võ trang để kháng cự. Rốt lại, năm 1598, do sắc chỉ Nantes, họ được quyền tự do tín ngưỡng và thờ phượng. Nhưng giữa khoảng 1572 và 1598, 200.000 người Huguenots đã tuận đạo. Giáo hoàng Clément VIII gọi sắc chỉ Nantes khoan dung tôn giáo là "một vật đáng rủa sả;" và sau bao nhiêu năm công tác bí mật của dòng Jésuite, sắc chỉ nầy bị bãi bỏ, năm 1685; 500.000 người Huguenots bèn trốn qua các nước theo đạo Tin Lành.
Cuộc cách mạng Pháp xảy ra 100 năm sau (1789), là một cuộc đảo lộn kinh khủng nhứt trong lịch sử. Trong lúc điên cuồng căm giận những sự tàn ác của giai cấp cầm quyền (trong đó có giới phẩm chức Giáo hội chiếm hữu một phần ba đất đai, vừa giàu có, biếng nhác, hủ hoại, vừa nhẫn tâm đối với kẻ nghèo), nhân dân bèn dấy lên, gây cảnh khủng khiếp và đổ máu, bãi bỏ chánh phủ, đóng cửa nhà thờ, tịch thâu tài sản của Giáo hội, tiêu trừ đạo Ðấng Christ và Chúa nhựt, tôn nữ thần Lý trí lên ngôi (thể hiện bằng một người đàn bà phóng đãng). Nã-phá-luân khôi phục Giáo hội, nhưng không khôi phục tài sản của nó. Năm 1802, ông ban bố sự khoan dung tôn giáo cho mọi người; và ông hầu đã kết liễu quyền hành chánh trị của Giáo hoàng ở khắp mọi nước.
Tại xứ Bohême, khoảng năm 1600, trong số 4 triệu dân, 80 phần 100 theo đạo Tin Lành. Khi triều đại Habsbourg và dòng Jésuite làm xong công việc của họ, thì chỉ còn lại 800 ngàn người, và hết thảy là Công giáo.
Ở Áo và Hung, quá nửa dân chúng theo đạo Tin Lành, nhưng do tay triều đại Habsbourg và dòng Jésuite, họ đã bị tàn sát.
Ở Ba-lan, khoảng cuối thế kỷ thứ 16, dường như Công giáo sắp bị quét sạch trơn trọi, song tại đây, dòng Jésuite cũng dùng sự bắt bớ mà giết chết cuộc Cải chánh.
Ở Ý, chính quê hương của Giáo hoàng, cuộc Cải chánh chiếm được địa vị vững vàng; nhưng Tôn giáo Pháp đình hoạt động không ngớt, nên đạo Tin Lành hầu như chẳng còn một vết tích gì.
Tại Tây-ban-nha, cuộc Cải chánh không bao giờ tấn bộ được, vì Tôn giáo Pháp đình đã có ở đó. Một bàn tay tàn nhẫn đã đè bẹp mọi sự cố gắng giành quyền tự do hoặc tư tưởng độc lập. Torquemada (1420-1498), một tu sĩ dòng Dominicain, đứng đầu bọn thẩm phán Tôn giáo Pháp đình, trong 18 năm, đã thiêu chết 10.200 người và bỏ tù chung thân 97.000 người. Các nạn nhân thường bị thiêu sống ở công trường; đó là cơ hội cho giới tôn giáo ăn mừng. Từ 1481 đến 1808, có rất ít là 100.000 người bị giết và 1 triệu rưỡi người bị lưu đày. "Trong thế kỷ thứ 16 và 17, Tôn giáo Pháp đình dập tắt sự sanh hoạt văn chương ở Tây-ban-nha, và hầu như loại nước ấy ra khỏi nền văn minh Âu-châu." Khi cuộc Cải chánh nhóm lên, thì Tây-ban-nha là nước hùng mạnh nhứt thế giới. Ðịa vị lu mờ hiện tại của Tây-ban-nha ở giữa các dân chứng tỏ chế độ Giáo hoàng có thể làm gì cho một nước.
Hải quân Tây-ban-nha (1588) gọi là "Armada." Một đặc điểm của chiến lược dòng Jésuite là tìm cách lật đổ các nước theo đạo Tin Lành. Giáo hoàng Grégoire XIII "chẳng từ chút gì để thúc đẩy Philippe II, hoàng đế Tây-ban-nha, khai chiến với nước Anh theo đạo Tin Lành." Sixte V lên ngôi Giáo hoàng lúc kế hoạch nầy gần thực hiện, và ông gọi nó là một cuộc viễn chinh của Thập-tự-quân (croisade), nghĩa là ông tặng phiếu ân xá cho những kẻ dự chiến. Lúc đó, Tây-ban-nha có hải quân hùng mạnh nhứt từng ở trên mặt biển; nhưng "Armada" kiêu hãnh đã bị thảm bại ở eo biển Manche. "Cuộc đắc thắng của nước Anh là chỗ rẽ cuối cùng trong cuộc đấu kiếm vĩ đại giữa đạo Tin Lành và đạo La-mã; nó chẳng những giữ vững nước Anh và xứ Tô-cách-lan cho chánh nghĩa Tin Lành, song cũng giữ Hòa-lan, miền Bắc nước Ðức, Ðan-mạch, Thụy-điển, Na-uy nữa."
Ở nước Anh, cuộc khởi nghĩa đi trước, cuộc Cải chánh theo sau. Từ thời Guillaume le Conquérant (1066), đã có nhiều lần người Anh phản đối việc Giáo hoàng kiểm soát nước Anh. Henri VIII (1509-1547) tin như các vị tiền bối của mình rằng Hội Thánh Anh quốc phải độc lập đối với Giáo hoàng, và vua phải là đầu (thủ lãnh) của Hội Thánh ấy. Vụ ly dị của ông vua nầy không phải là nguyên nhân, mà là cơ hội để ông ly khai với Giáo hội La-mã. Henri không phải là bậc thánh, nhưng Giáo hoàng đồng thời với ông, là Paul III, cũng chẳng phải là bậc thánh, vì ông có rất nhiều con không chánh thức. Năm 1534, Hội Thánh Anh quốc dứt khoát chối bỏ quyền hành của Giáo hoàng, và tự tạo một đời sanh hoạt độc lập dưới sự lãnh đạo tinh thần của Tổng giám mục ở Canterbury, còn Henri VIII nhận tước vị là "Thủ lãnh Tối cao" để điều khiển các việc đời nầy và các mối liên lạc chánh trị của nước Anh. Thomas Cranmer là Tổng giám mục ở Canterbury, và cuộc Cải chánh bắt đầu dưới đời ông nầy. Các tu viện bị hủy bỏ, viện cớ nó hủ hoại. Kinh Thánh tiếng Anh được đặt ở các nhà thờ, và có quyển Cầu nguyện để dùng trong các cuộc thờ phượng bằng tiếng Anh; các chi hội cổi bỏ nhiều tục lệ của La-mã giáo. Dưới đời trị vì kế tiếp của Edouard VI (1547-1553), cuộc Cải chánh tấn bộ rất nhiều. Nhưng Nữ hoàng Mary khát máu (1553-1558) quyết cố gắng khôi phục La-mã giáo, và dưới đời trị vì của bà, nhiều tín đồ Tin Lành đã tuận đạo, trong số ấy có Latimer, Ridley và Cranmer. Dưới đời trị vì của Nữ hoàng Elizabeth (1558-1603), dân chúng lại được quyền tự do, và Hội Thánh Anh quốc được tái lập dưới hình thức còn đến ngày nay. Từ Hội Thánh Anh quốc đã phát xuất các giáo phái Puritain (Thanh giáo) và Méthodiste (Giám lý).
Ở xứ Tô-cách-lan vẫn còn ảnh hưởng của Wicliff. Khoảng 1528, giáo lý của Luther truyền bá tới đây, và giáo lý của Calvin theo sau. Truyện tích Cải chánh ở Tô-cách-lan chính là truyện tích John Knox.
John Knox (1515-1572) là một Linh mục Tô-cách-lan; khoảng năm 1540, ông bắt đầu dạy những tưởng Cải chánh. Năm 1547, ông bị quân đội Pháp bắt giải qua Pháp, tại đây ông làm tôi mọi trên một chiến thuyền suốt 19 tháng. Do ảnh hưởng của chánh phủ Anh, ông được thả ra, và năm 1549, ông trở về nước Anh, tiếp tục giảng dạy. Khi Nữ hoàng Mary khát máu lên ngôi năm 1553, ông đi qua Genève, tại đây ông hoàn toàn tiếp nhận giáo lý của Calvin. Năm 1559, Nghị viện của các vương hầu Tô-cách-lan triệu ông về xứ để làm thủ lãnh phong trào cải cách quốc gia. Tình hình chính trị khiến cuộc cải cách Hội Thánh và nền độc lập quốc gia trở thành MộT phong trào. Mary, nữ hoàng Tô-cách-lan, đã lấy Francois II, vua Pháp, là con trai của Catherine de Médicis (nổi danh vì cuộc tàn sát Saint Barthélemy). Như vậy, Tô-cách-lan và Pháp là thông gia, và ngôi vua của họ liên kết với nhau vì cuộc hôn nhân. Chánh quyền nước Pháp có ý tiêu diệt đạo Tin Lành. Philippe II, vua Tây-ban-nha, và nhiều người Công giáo khác toan mưu sát nữ hoàng Elizabeth để đặt Mary, nữ hoàng Tô-cách-lan, lên ngôi nước Anh. Giáo hoàng Pie V ủng hộ mưu chước ấy bằng cách ra sắc lịnh dứt phép thông công Elizabeth và giải phóng thần dân của bà khỏi phục tòng bà nữa (theo giáo lý của dòng Jésuite, thì đó có nghĩa là kẻ giết bà sẽ có một hành động hầu việc Ðức Chúa Trời). Như vậy, đang khi Hội Thánh Tô-cách-lan ở dưới sự kiểm soát của Pháp, thì không thể nào cải chánh được. John Knox tin rằng tương lai của đạo Tin Lành tùy thuộc một cuộc liên minh giữa nước Anh theo đạo Tin Lành và xứ Tô-cách-lan theo đạo Tin Lành. Ông tự tỏ ra là một bậc lãnh tụ kỳ diệu. Hội Thánh Cải chánh thành lập năm 1560; và với sự giúp đỡ của nước Anh, khoảng năm 1567, quân Pháp đã bị đánh đuổi; La-mã giáo đã bị quét sạch trơn trọi hơn là ở bất cứ nước nào khác. John Knox đã dự phần lớn tạo nên xứ Tô-cách-lan, tới ngày nay vẫn còn y nguyên vậy.
Cuộc Phản cải chánh.-- Trong 50 năm, cuộc Cải chánh đã nắm chặt Âu-châu, gồm phần lớn nước Ðức, Thụy-sĩ, Hòa-lan, Thụy-điển, Na-uy, Anh, Tô-cách-lan, xứ Bohême, Áo, Hung, Ba-lan, và tiến mạnh tới Pháp. Ðó là một đòn kinh khủng cho Giáo hội La-mã, và đến phiên Giáo hội nầy tổ chức cuộc Phản cải chánh. Nhờ Giáo hội nghị Trente (họp 18 năm, từ 1545 đến 1563), dòng Jésuite và Tôn giáo Pháp đình, một số điều quá lạm tinh thần của chế độ Giáo hoàng đã bị bãi bỏ. Khoảng cuối thế kỷ nầy, La-mã đã được tổ chức để tấn công đạo Tin Lành; dưới sự lãnh đạo xuất sắc và tàn ác của dòng Jésuite, La-mã chiếm lại được nhiều đất đai đã mất, tức là miền nam nước Ðức, xứ Bohême, Áo, Hung, Ba-lan, Bỉ, và đè bẹp cuộc Cải chánh ở pháp. Trong vòng 100 năm, khoảng 1689, cuộc Phản cải chánh đã tung ra hết lực lượng. Các vua chúa nòng cốt đã đánh trận cho Giáo hoàng là: Charles V (1519-1556), vua Tây-ban-nha, đánh tín đồ Tin Lành ở Ðức; Philippe II (1556-1598), vua Tây-ban-nha, chống Hòa-lan và Anh; Ferdinand II (1619-1637), vua Áo, đánh người xứ Bohême (ba ông nầy là hoàng đế của đế quốc La-mã thánh); Cathérine de Médicis, mẹ của ba vua nước Pháp, là Francois II (1559-1560), Charles IX (1560-1574), và Henri III (1574-1589), đã đánh trận để tuyệt diệt người Huguenots.
Các cuộc chiến tranh tôn giáo.-- Theo sau phong trào Cải chánh có 100 năm chiến tranh tôn giáo: 1) Chiến tranh chống tín đồ Tin Lành ở Ðức (1546-1555); 2) Chiến tranh chống tín đồ Tin Lành ở Hòa-lan;(1566-1609); 3) Chiến tranh chống người Huguenots ở Pháp (1572-1598); 4) Vua Philippe mưu chống nước Anh (1588); 5) Chiến tranh 30 năm (1618-1648). Trong những cuộc chiến tranh nầy cũng có xen vào sự cạnh tranh chánh trị và quốc gia, luôn với những vấn đề tài sản, vì Giáo hội ở nhiều nước chiếm từ 1 phần 5 đến 1 phần 3 tất cả đất đai. Nhưng cuộc chiến tranh nào cũng GÂY RA bởi các vua Công giáo, do Giáo hoàng và dòng Jésuite thúc đẩy, cốt để đè bẹp đạo Tin Lành. Họ là kẻ xâm lăng, còn tín đồ Tin Lành chỉ tự vệ. Sau nhiều năm chịu bắt bớ, tín đồ Tin Lành ở Hòa-lan, Ðức và Pháp mới trở thành đảng chánh trị.
Cuộc chiến tranh 30 năm (1618-1648). Khoảng năm 1580, tại xứ Bohême và Hung, tín đồ Tin Lành chiếm đa số và gồm hầu hết các vị vương hầu có đất đai. Hoàng đế Ferdinand II, thuộc triều đại Hasbourg, đã do dòng Jésuite giáo dục; và nhờ họ giúp đỡ, ông đã mưu toan tiêu diệt đạo Tin Lành. Tín đồ Tin Lành bèn hiệp lại để kháng cự. Phần đầu cuộc chiến tranh (1618-1629), thì Công giáo thắng; họ trục xuất được đạo Tin Lành khỏi hết thảy quốc gia theo Công giáo. Ðoạn, họ quyết định đem các tiểu quốc Tin Lành ở Ðức trở lại Công giáo. Gustave-Adolphe, vua Thụy-điển, nhận thấy rằng nếu nước Ðức theo Tin Lành sụp đổ, thì Thụy-điển cũng sụp đổ và có lẽ đạo Tin Lành không còn nữa. Ông bèn xông vào vòng chiến, và quân đội ông đã thắng (1630-1632). Ông đã cứu được chánh nghĩa Tin Lành. Phần cuối cuộc chiến tranh nầy (1632-1648) đại để là cuộc vật lộn giữa Pháp và triều đại Habsbourg, và kết quả là Pháp trở thành cường quốc bá chủ Âu-châu. Cuộc chiến tranh 30 năm khởi đầu là một cuộc chiến tranh tôn giáo, và kết liễu là một cuộc chiến tranh chánh trị. Kết cuộc từ 10 đến 20 triệu người đã bỏ mạng. Ferdinand II do người Jésuite giáo dục đã gây cuộc chiến tranh nầy với mục đích đè bẹp đạo Tin Lành. Nó kết liễu bằng hòa ước Wetphalie, năm 1648, ấn định giới hạn giữa các quốc gia Công giáo và các quốc gia Tin Lành.
Các cơn bắt bớ của Giáo hoàng.-- Số người tuận đạo trong các cơn bắt bớ của Giáo hoàng còn đông bội phần hơn số người tuận đạo trong Hội Thánh đầu tiên, dưới tay đế quốc La-mã. Hàng trăm ngàn người thuộc phái Albigeois, Vaudois và tín đồ Tin Lành ở Ðức, Hòa-lan, xứ Bohême và nhiều nước khác đã bỏ mình. Quả thật, "Kẻ tà dâm... say huyết các thánh đồ" (Khải Huyền 17:5, 6). Trong vấn đề nầy, người ta thường bào chữa cho các Giáo hoàng rằng đó là "tinh thần của thời đại" và "người Tin Lành cũng bắt bớ." "Về "tinh thần của thời đại," thì thời đại của ai đó? và ai đã tạo nên thời đại như vậy? Của các Giáo hoàng, và các Giáo hoàng đã tạo nên nó như vậy. Ấy là thế giới của họ. Trải qua 1000 năm, họ đã huấn luyện thế giới để phục tòng họ. Nếu các Giáo hoàng không giựt Kinh Thánh khỏi dân chúng, thì dân chúng hẳn đã biết nhiều hơn, và "tinh thần của thời đại" sẽ Chẳng như vậy. Ðó Chẳng Phải là tinh thần của Ðấng Christ, và "những người đại diện Ðấng Christ" đáng phải biết rõ hơn. Sự bắt bớ là tinh thần của Ma Quỉ, mặc dầu họ đã nhơn Danh Ðấng Christ mà bắt bớ.
Những cơn bắt bớ do tín đồ Tin Lành.-- Calvin đã bằng lòng xử tử Servet. Tại Hòa-lan, giáo phái Calviniste đã xử tử một người xứ [1]c-mê-ni. Tại Ðức, giáo phái Luthérien đã xử tử một ít người Anabaptiste. Tại nước Anh, vua Edouard VI, theo đạo Tin Lành, trong vòng 6 năm, đã thiêu chết 2 người Công giáo (trong 5 năm sau đó, nữ hoàng Mary, theo Công giáo, thiêu chết 282 tín đồ Tin Lành). Trong vòng 45 năm, nữ hoàng Elizabeth đã xử tử 187 người Công giáo, phần đông vì tội phản loạn, chớ không vì theo tà giáo. Năm 1659, tại tiểu bang Massachusetts (Mỹ), 3 người thuộc giáo phái Quaker đã bị giáo phái Thanh giáo (Puritain) treo cổ chết. Năm 1692, 20 người Quakers bị xử tử vì làm tà thuật. Tổng cộng, chỉ có vài trăm, hoặc nhiều lắm là 1, 2 ngàn người tuận đạo vì tay tín đồ Tin Lành; nhưng Công giáo đã giết hàng bao nhiêu triệu tín đồ Tin Lành, kể không xiết. Dầu cuộc Cải chánh là một cuộc tranh đấu vĩ đại để giành quyền tự do tín ngưỡng, nhưng các nhà Cải chánh đã chậm ban cho kẻ khác cái mà chính mình họ tìm kiếm. Tuy nhiên, nguyên tắc căn bản của phong trào họ là chống sự bắt bớ để giành quyền tự do tín ngưỡng. Luther nói rằng: "Chúng ta hãy Lý Luận để giải quyết tình trạng nầy." Giáo hoàng đáp lại: "Hãy Ðầu Phục, bằng không, sẽ bị thiêu chết." Mặc dầu đây, đó, chính các nhà Cải chánh tỏ ra dấu tích không khoan dung tôn giáo của Giáo hội La-mã, nhưng họ dạy rằng đạo Ðấng Christ phải được truyền bá hoàn toàn và tuyệt đối bởi những phương pháp trí thức, đạo đức và thiêng liêng. Còn tư tưởng của Giáo hội La-mã thời ấy là: Dùng võ lực, khí giới của đời nầy và Chiến Tranh để làm cho người ta trở lại đạo. Trong các nước theo đạo Tin Lành, sự bắt bớ đã chấm dứt khoảng năm 1700.
Giáo dục quần chúng.-- Trong sự nghiệp của Luther có một đặc điểm, là ông nhấn mạnh vào nền giáo dục quần chúng. Giáo hội La-mã đã cai trị thế giới 1000 năm, nhưng đa số quần chúng không biết đọc, biết viết. Trong các xứ theo Công giáo, sự dốt nát của quần chúng vẫn còn ở mực độ cao,-- ấy là so sánh các nước theo đạo Tin Lành. Mục biểu dưới đây ghi rõ bao nhiêu phần trăm dân số một nước còn Thất Học.
Argentine (1895) ................ 54 Hòa-lan (1900) .................... 4
Úc-đại-lợi (1921) .............. 1, 5 Hung (1910) ...................... 33
Áo (1910) ......................... 19 Ấn-độ (1921) ..................... 93
Bỉ (1910) .......................... 13 Ái-nhĩ-lan (1911) .............. 17
Ba-tây (1890) .................... 85 Ý (1911) ........................... 38
Bảo (1905) ........................ 66 Mễ-tây-cơ (1910) ............... 70
Gia-nã-đại (1921) ................ 6 Phi-luật-tân (1903) ............ 56
Trung-hoa ......................... 80 Bồ-đào-nha (1911) ............. 69
Chili (1907) ....................... 50 Lỗ-mã-ni (1909) ................. 61
Ai-cập (1917...................... 92 Nga (1897) ....................... 69
Anh (1910) ......................... 6 Tô-cách-lan (1900) ............... 4
Pháp (1906) ...................... 14 Tây-ban-nha (1920) ........... 46
Ðức (1900) ....................... 0.1 Thụy-sĩ (1900) .................. 0.3
Hi-lạp (1907) ..................... 57 Mỹ (1920) ........................... 6
Dầu trong mấy năm gần đây, hầu hết các nước đã cưỡng bách giáo dục và nạn mù chữ lần lần biến mất, nhưng mục biểu trên đây tỏ ra trí tuệ quần chúng đã được mở mang dưới chế độ nào.
Hai nền văn minh.-- trải qua 300 năm , ở Tây phương có hai nền văn minh rất rõ rệt, một là: nền văn minh Tin Lành,chủ trương mở Kinh Thánh cho mọi người đọc, bình dân giáo dục, thiết lập các cơ cấu dân chủ, cải cách xã hội, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận; nền văn minh nầy chiếm ưu thế ở Ðức, Thụy-điển, Na-uy, Ðan-mạch, Anh, Tô-cách-lan, Mỹ, Gia-nã-đại. Hai là: Nền văn minh Công Giáo La Mã, nhìn nhận các sự kiện trên đây, nhưng không quyết định thực hiện; nền văn minh nầy chiếm ưu thế ở Ý, Tây-ban-nha, Mễ-tây-cơ, Nam-mỹ-châu. Hai Nền Văn Minh Tự Nói Lên Giá Trị Của Nó.
http://www.vietchristian.com/kinhthanh/reader.asp?pid=,src=/kinhthanh/tklk/tklk.xml,name=Chuong,enc=2,nl=0,id=0
Các nhà cải cách
Martin Luther
|
Jean Calvin
|
Desiderius Erasmus
|
John Wycliffe
|
Nhóm Vô-đoa (Les Vaudois)
Vào năm 1170, Phi-e-rơ Van-đô (Pierre Valdo), một thương gia giàu có ở Lyon, cho dịch quyển Kinh Thánh Tân Ước bằng ngôn ngữ phổ thông bình dị và bán hết gia tài của mình để đi truyền đạo. Một số người khác hưởng ứng tham gia phong trào này ; họ bị khai trừ vào năm 1184. Nhóm này có biệt danh « Những Người nghèo khổ của vùng Lyon » đã gặp phải một sự thù nghịch lớn lao. Vì vậy, họ phải rút vào sâu trong các thung lũng của dãy núi Alpes để tìm phương ẩn náu. Họ chỉ dự phần thờ phượng theo nghi thức Công giáo khi thấy vị linh mục ở đó là một người sùng kính Chúa. Tuy nhiên, họ vẫn từ bỏ tín lý về lò luyện tội (hay luyện ngục) và sự thờ lạy các thánh. Họ sống rải ra khắp châu Au, và cho dù bị bắt bớ dữ dội, họ vẫn không bị trừ diệt mà vẫn cứ tồn tại. Thật là điều thú vị khi so sánh Valdo với François d'Assise : Cả hai đều giàu có, nhưng đã bỏ sự giàu sang phú quý của mình ra sau lưng để đi theo Chúa Giê-su. Họ đào tạo những giảng sư để đánh thức tâm hồn quần chúng nhân dân. Tuy nhiên giữa hai nhân vật này vẫn có một điểm khác biệt : François d'Assise vẫn giữ mình đứng trong truyền thống Công giáo, còn Valdo thì quan tâm đến việc tôn trọng và vâng giữ Lời Chúa. Chính nhóm Vaudois đã để lại một ảnh hưởng sâu xa giúp làm nền tảng, về một phương diện nào đó, cho Công cuộc Cải Chánh. Dường như những phong trào này không tồn tại được lâu dài vì cớ chúng bị dập tắt một cách có hệ thống. Tuy nhiên, ngọn đuốc của sự phục hưng bao giờ cũng được giữ gìn và giương cao cho đến Cuộc Cải Chánh ! |