Giáo Hội Cơ-Đốc Phục Lâm An Thất Nhật / Adventism / Seventh-day Adventist Church
Giáo Hội Cơ-Đốc Phục Lâm An Thất Nhật
|
|
Những Tín Lý và Quan Điểm Thần Học Nghịch Thánh Kinh Của Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật
Dẫn Nhập
Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật còn được gọi cách vắn tắt là Cơ-đốc Phục Lâm [1]. Toàn bộ danh xưng này là tiếng Hán Việt: Cơ-đốc là Đấng Christ, Phục là trở lại, Lâm là đến, An là yên nghỉ, Thất là bảy, Nhật là ngày. Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật là một tổ chức tôn giáo tin rằng Đấng Christ sẽ tái lâm (phục lâm) một cách bất kỳ và tin rằng tín đồ của Đấng Christ phải thờ phượng Đức Chúa Trời vào ngày Sa-bát, tức ngày thứ bảy. Phần lớn những người ngoài Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật chỉ biết đến điểm nổi bật của giáo phái này trong sự giữ ngày Sa-bát, nhưng ít khi biết rõ các tín lý của Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật. Tín đồ Đấng Christ sinh hoạt trong các giáo hội, giáo phái Tin Lành thường được nghe các mục sư, truyền đạo nói rằng Cơ-đốc Phục Lâm là tà giáo nhưng sự thật thì ít khi được giải thích cho biết là “tà giáo” như thế nào. Từ đó, nảy sinh ra một ngộ nhận trong các giáo hội, giáo phái Tin Lành khiến cho những ai giữ ngày Sa-bát thì đều bị xếp loại là “Tà Giáo Cơ-đốc Phục Lâm.”
Trong bài viết này, tác giả sẽ trình bày những tín lý và quan điểm thần học nghịch Thánh Kinh của Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật.
Tưởng cũng cần nhắc đến các quan điểm sau đây của tác giả: (1) Các giáo hội, giáo phái, hệ phái chỉ là các tổ chức tôn giáo mang danh Chúa do loài người lập ra (I Cô-rinh-tô 3:3-4); con dân Chúa có mặt và sinh hoạt trong các giáo hội, giáo phái, hệ phái nhưng các tổ chức đó không phải là Hội Thánh của Chúa. Hội Thánh của Chúa là tất cả những người “đã được nên thánh trong Đức Chúa Jesus Christ” (I Cô-rinh-tô 1:1-2) tức là những người thật lòng ăn năn, từ bỏ tội, tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Jesus Christ, và vui lòng sống theo sự dạy dỗ của Thánh Kinh; họ được gọi là thân thể của Chúa, do chính Chúa cai trị. (2) Thánh Kinh là Lời của Đức Chúa Trời, hoàn toàn và chân thật, là tiêu chuẩn và thẩm quyền tuyệt đối của Đức Chúa Trời cho nếp sống đạo của Hội Thánh. Bất cứ sự dạy dỗ hoặc tổ chức nào trong các giáo hội, giáo phái, hệ phái mà không có trong Thánh Kinh, thì đều là ý riêng của loài người.
Lược Sử Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật
William Miller (15.02.1782 – 20.12.1849), một người Mỹ thuộc giáo Hội Báp-tít, là người khởi xướng phong trào “trông chờ Chúa tái lâm” vào giữa thế kỷ thứ 19. Miller dốc lòng tìm kiếm lẽ thật trong Thánh Kinh bằng cách bắt đầu đọc Thánh Kinh từ Sáng Thế Ký cho đến Khải Huyền. Trong khi đọc, ông suy gẫm cho đến khi tin rằng mình đã hiểu câu đang đọc thì mới đọc sang câu kế tiếp. Khi Miller đọc đến Đa-ni-ên 8 thì ông cho rằng thời khoảng “hai ngàn ba trăm buổi chiều và buổi mai” được nói đến trong câu 14 là thời khoảng từ khi có chiếu chỉ xây dựng lại Giê-ru-sa-lem (457 TCN) cho đến khi Đấng Christ tái lâm. Miller dùng nguyên tắc “ngày=năm” trong Dân Số Ký 14:34 và Ê-xê-chi-ên 4:5-6 để tính rằng: hai ngàn ba trăm buổi chiều và buổi mai = 2300 ngày = 2300 năm. Như vậy, theo Miller, Chúa sẽ tái lâm vào khoảng năm 1843 – 1844. Miller đưa ra lời tuyên bố về sự tính toán của ông vào năm 1818 và tiếp tục nghiên cứu thêm cho đến tháng 9 năm 1822 thì ông chính thức khẳng định sự tính toán của mình.
Đến năm 1831, Miller bắt đầu rao giảng lý thuyết và tính toán của ông về ngày Chúa tái lâm. Người tin theo Miller được gọi là “Cơ-đốc Phục Lâm.” Dầu vậy, những tiên đoán của ông về việc Chúa sẽ tái lâm vào tháng 10 năm 1843, hay mùa xuân năm 1844 đều không ứng nghiệm. Sau đó, một trong những người ủng hộ lý thuyết của Miller, là Samuel Snow, đã đưa ra tính toán mới là vào ngày 22 tháng 10 năm 1844 Đấng Christ sẽ tái lâm. Tuy nhiên, năm 1844 đã qua đi mà Đấng Christ vẫn chưa tái lâm, đem lại một sự thất vọng lớn cho trên 100,000 người tin theo Miller và Snow. Ông Miller đã chính thức nhận rằng mình sai, xin lỗi Hội Thánh, và rút lui ra khỏi sinh hoạt của Phong Trào Cơ-đốc Phục Lâm, rồi qua đời vào tháng 12 năm 1849. Nhiều người hoàn toàn từ bỏ lý thuyết của Miller nhưng cũng có những người tìm cách kiện toàn phương pháp tính toán và giải kinh của Miller để đưa ra những thời điểm mới về sự kiện Đấng Christ tái lâm.
Ban đầu, những người Cơ-đốc Phục Lâm chỉ nghiêng về sự kiện Chúa Tái Lâm và chưa chấp nhận tín lý giữ ngày Sa-bát. Vào khoảng đầu năm 1844, một thiếu nữ thuộc Giáo Phái Báp-tít Ngày Thứ Bảy (Seventh Day Baptist) tên là Rachel Oakes Preston đã giới thiệu tín lý giữ ngày Sa-bát cho những người Cơ-đốc Phục Lâm. Sau đó, tín lý giữ ngày Sa-bát trở thành một trong những tín lý quan trọng của những người Cơ-đốc Phục Lâm và đến năm 1860 thì họ chính thức dùng danh xưng Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật (Seventh Day Adventist).
Một trong những người tiếp tục triển khai lý thuyết của Miller và góp phần trong việc khai sinh ra Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật là bà Ellen White (26.11.1827 – 16.07.1915), xuất thân từ Giáo Hội Giám Lý (Methodist). Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật được chính thức thành lập vào ngày 21 tháng 5 năm 1863. Bà White cho biết bà được đem lên thiên đàng, nhận lãnh chỉ thị và khải tượng từ Chúa để thành lập Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật. Bà White tự xem mình là nữ tiên tri của Đức Chúa Trời và tín đồ Cơ-đốc Phục Lâm chấp nhận vai trò nữ tiên tri của bà. Thực tế, họ xem các sách do bà viết ra có thẩm quyền đứng hàng thứ nhì sau Thánh Kinh cho đức tin và nếp sống đạo của tín đồ Đấng Christ. Có thể nói, toàn thể hệ thống thần học của Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật dựa trên các tác phẩm của bà White. Tác phẩm chính là cuốn “The Great Controversy” (Cuộc Đối Nghịch Vĩ Đại) trình bày sự phản loạn của Satan chống nghịch lại Đức Chúa Trời và loài người là bãi chiến trường cho cuộc chiến giữa Đấng Christ và Satan. Bà White tin và dạy rằng lý thuyết của Miller và sự tính toán của Snow là đúng nhưng ngày 22 tháng 10 năm 1844 là ngày Đấng Christ từ nơi thánh bước vào nơi chí thánh trên thiên đàng để khởi sự cuộc phán xét những kẻ sống và kẻ chết trên đất.
Theo thống kê năm 2010 [2], Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm có trên 16 triệu 600 ngàn tín đồ (không kể trẻ em), là một tổ chức tôn giáo lớn, đứng hàng thứ 12 trên thế giới, còn xét về ảnh hưởng quốc tế thì đứng hàng thứ sáu. Riêng tại Việt Nam, từ năm 1915 đến 1927, Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm vào Việt nam truyền giáo tại các thành phố Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Lạng Sơn, Sàigòn, Chợ Lớn… và “Hội Thánh Cơ-đốc Phục Lâm” đầu tiên tại Sàigòn được thành lập vào đầu tháng 12 năm 1929.
Những Tín Lý Nghịch Thánh Kinh của Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật
Theo dòng lịch sử, tín lý của Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật có nhiều thay đổi. Từ năm 2005 cho đến nay, Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật có 28 Niềm Tin Căn Bản (28 Fundamentals) [3]. Trong 28 niềm tin căn bản đó, phần lớn phù hợp với sự dạy dỗ của Thánh Kinh nhưng có những điều được liệt kê dưới đây nghịch lại với sự dạy dỗ của Thánh Kinh:
1. Tín lý thứ 7 cho rằng mỗi người là một liên kết không thể phân chia bao gồm thể xác, trí tuệ, và tâm thần (body, mind, spirit).
Thánh Kinh dạy người là một thực thể bao gồm thể xác, linh hồn, và tâm thần (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23). Lời của Chúa có thể phân chia linh hồn, tâm thần, và thể xác (Hê-bơ-rơ 4:12). Linh hồn và tâm thần có thể rời khỏi thể xác khi sự chết thứ nhất xảy ra hoặc khi được thần cảm (Lu-ca 16:22-23; II Cô-rinh-tô 5:9; 12:1-5).
2. Tín lý thứ 13 cho rằng trong những ngày cuối cùng, giữa sự bội đạo lớn, một phần còn sót lại của Hội Thánh được gọi ra khỏi các tổ chức tôn giáo mang danh Chúa để vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời và đức tin trong Đấng Christ. Nhiệm vụ của phần còn sót lại là rao truyền sự phán xét sắp đến, công bố sự cứu rỗi trong Đức Chúa Jesus Christ, và loan báo sự tái lâm của Ngài. Nhiệm vụ này được tiêu biểu bởi ba thiên sứ trong Khải Huyền 14 và xảy ra đồng thời với sự phán xét trên thiên đàng, đem đến sự ăn năn và thay đổi trên đất.
Từ ngữ “sự phán xét trên thiên đàng” đề cập đến tín lý thứ 24 liên quan đến khải tượng của bà White về việc ngày 22 tháng 10 năm 1844 Đấng Christ thay vì tái lâm trên đất thì đã từ nơi thánh bước vào nơi chí thánh trên thiên đàng để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Thánh Kinh không hề nói đến sự kiện Đấng Christ phán xét kẻ sống và kẻ chết trong nơi chí thánh trong thiên đàng. Sách Khải Huyền từ đoạn 6 cho đến đoạn 19 là lời tiên tri về sự phán xét của Đức Chúa Trời trên thế gian sau khi Hội Thánh đã được đem ra khỏi thế gian.
3. Tín lý thứ 16 cho rằng Đấng Christ hiện diện trong sự dự Tiệc Thánh để gặp gở và thêm sức cho các tín đồ.
Thánh Kinh không hề dạy Đấng Christ hiện diện mỗi khi tín đồ dự Tiệc Thánh để gặp gở và thêm sức cho họ. Thánh Kinh dạy Đức Chúa Jesus ở cùng tín đồ cho đến khi tận thế (Ma-thi-ơ 28:20); Đức Cha và Đức Con ở trong những ai yêu mến Đấng Christ và vâng giữ lời Ngài (Giăng 14:23); Đức Thánh Linh ngự trong thân thể tín đồ và thân thể tín đồ trở thành đền thờ của Đức Chúa Trời (I Cô-rinh-tô 3:16; 6:19). Nói cách khác, Ba Ngôi Đức Chúa Trời ở trong những ai thuộc về Đấng Christ chứ không phải chỉ mỗi lần tín đồ dự Tiệc Thánh thì Đấng Christ mới hiện diện với họ. Chính Đấng Christ dạy rằng Tiệc Thánh là việc tín đồ làm để nhớ đến Chúa “Hãy làm điều này để nhớ đến Ta!” chứ không phải là việc làm để Chúa hiện diện và thêm sức cho tín đồ (I Cô-rinh-tô 11:24-25).
4. Tín lý thứ 18 cho rằng ân tứ nói tiên tri được thể hiện và ban cho bà Ellen White cùng với khoảng 2000 khải tượng và giấc mơ; các tác phẩm của bà có thẩm quyền và là nguồn lẽ thật tiếp tục nuôi dưỡng, dạy dỗ, dẫn dắt, bẻ trách và sửa trị Hội Thánh.
Trong thực tế, nhiều lời tiên tri của bà White đã không ứng nghiệm, (sẽ trình bày trong một bài viết khác khi có dịp). Mặt khác, cho dù 100% những ý tưởng được trình bày trong các tác phẩm của bà White phù hợp với sự dạy dỗ của Thánh Kinh thì cũng không vì đó mà các tác phẩm của bà trở thành thẩm quyền và nguồn lẽ thật cho Hội Thánh, huống chi, có những sự sai lạc với lời dạy của Thánh Kinh trong các tác phẩm của bà. Dưới đây là một vài thí dụ điển hình:
Ellen White viết:“Những người tiếp nhận Cứu Chúa, dù thật lòng đến đâu, cũng không nên dạy cho họ nói hay cảm nhận rằng họ đã được cứu.” (Nguyên văn: “Those who accept the Saviour, however sincere their conversion, should never be taught to say or feel that they are saved.” Christ’s Object Lessons, trang 155).
Thánh Kinh dạy:“Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời” (I Giăng 5:13).
Ellen White viết:“Đừng một người hầu việc Chúa nào trong chúng ta làm ra gương ác bằng cách ăn thịt. Họ và gia đình của họ phải sống đúng theo sự soi dẫn của sự cải biến sức khỏe. Đừng để cho những người hầu việc Chúa trong chúng ta thú vật hóa bản tính tự nhiên của họ và con cháu họ.” (Nguyên văn:“Let not any of our ministers set an evil example in the eating of flesh-meat. Let them and their families live up to the light of health reform. Let not our ministers animalize their own nature and the nature of their children.” Spalding and Magan, trang 211).
Thánh Kinh dạy:“Phàm vật chi hành động và có sự sống thì dùng làm đồ ăn cho các ngươi. Ta cho mọi vật đó như ta đã cho thứ cỏ xanh” (Sáng Thế Ký 9:3).
Ellen White viết:“Bị bệnh là phạm tội; vì tất cả các thứ bệnh đều là kết quả của sự phạm pháp.” (Nguyên văn: “It is a sin to be sick; for all sickness is the result of transgression.” Health Reformer, 01.08.1866).
Thánh Kinh dạy:“Sa-tan bèn lui ra trước mặt Đức Giê-hô-va, hành hại Gióp một bịnh ung độc, từ bàn chơn cho đến chót đầu” (Gióp 2:7).
5. Tín lý thứ 24 cho rằng vào năm 1844 Đấng Christ đã từ nơi thánh bước vào nơi chí thánh trên thiên đàng để hoàn tất công việc chuộc tội cho nhân loại bằng cách dùng huyết Ngài tẩy sạch đền thánh trên trời và phán xét kẻ sống và kẻ chết. Khi công tác này hoàn thành thì Đấng Christ sẽ tái lâm trên đất. Sự phán xét kẻ sống có nghĩa là phán xét những người đang sống trên đất từ khi Đấng Christ vào nơi chí thánh cho đến khi Ngài tái lâm; còn sự phán xét kẻ chết là phán xét những người tin Chúa đã chết trước thời điểm đó. Theo bà Ellen White thì ngày 22 tháng 10 năm 1844 là ngày Đấng Christ khởi sự thi hành sự phán xét.
Thánh Kinh cho biết Đấng Christ đã làm xong công tác chuộc tội cho nhân loại. Công tác đó hoàn thành khi Đấng Christ chết trên thập tự giá. Chính Ngài tuyên phán: “Xong” (Giăng 19:30)! Hê-bơ-rơ 9:12 chép rõ “Ngài đã vào nơi rất thánh một lần thì đủ hết, không dùng huyết của dê đực và của bò con, nhưng dùng chính huyết mình, mà được sự chuộc tội đời đời.” Động từ “vào” trong nguyên tác Hy-lạp của câu này thuộc thời quá khứ bất định để chỉ một việc đã hoàn thành trong thời quá khứ, nghĩa là trước khi thư Hê-bơ-rơ được viết. Như vậy, làm sao có chuyện đến năm 1844 thì Đức Chúa Jesus Christ mới vào nơi chí thánh? Thánh Kinh cũng không hề nói đến chuyện Đấng Christ thi hành sự phán xét kẻ sống và kẻ chết trong nơi chí thánh trên trời hoặc trước khi Ngài tái lâm trên đất. Thức tế, Thánh Kinh cho biết sau khi Hội Thánh được cất ra khỏi thế gian thì Đức Chúa Trời phán xét thế gian trong một thời kỳ bảy năm và sau khi trời cũ đất cũ qua đi thì Đấng Christ sẽ gọi những kẻ chết không thuộc về Chúa sống lại và phán xét mỗi người tùy theo công việc họ làm.
6. Tín lý thứ 26 cho rằng người chết thì không còn ý thức gì cả.
Đấng Christ phán rằng người chết vẫn có ý thức, có cảm giác và có trí nhớ. Câu chuyện về người nhà giàu tội lỗi và người ăn mày tên La-xa-rơ được chép lại trong Lu-ca 16:19-31 chứng minh điều đó. Ngoài ra, những thánh đồ tử đạo thời đại nạn vẫn có ý thức và biết kêu cầu xin Chúa báo trả những kẻ ác (Khải Huyền 6:9-10).
7. Tín lý thứ 27 cho rằng vương quốc ngàn năm bình an là ở trên trời, còn trái đất lúc đó bị bỏ hoang, không có người ở, chỉ có Satan và các quỷ sứ của nó. Cuối ngàn năm bình an thì thành thánh sẽ từ trời giáng xuống trên đất. Khi đó những kẻ ác sẽ sống lại, hợp với Sa-tan và các quỷ sứ của nó bao vây thành thánh nhưng lửa từ Đức Chúa Trời sẽ thiêu hủy họ và thanh tẩy trái đất. Từ đó, vũ trụ sẽ không còn tội nhân và tội lỗi nữa.
Thánh Kinh cho biết vương quốc ngàn năm là ở trên đất. Sa-tan bị giam trong vực sâu suốt một ngàn năm. Không có chuyện những kẻ ác sẽ sống lại vào cuối ngàn năm bình an để hợp sức với Sa-tan bao vây thành thánh từ trời giáng xuống. Thành thánh chỉ từ trời giáng xuống đất sau khi đã có trời mới đất mới, là lúc Sa-tan và những thiên sứ phạm tội cùng những người không thuộc về Chúa đã bị ném vào hồ lửa đời đời (Khải Huyền 20-22).
Ngoài 28 Niềm Tin Căn Bản, Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật còn có những quan điểm thần học không đúng với sự dạy dỗ của Thánh Kinh như sau:
8. Chỉ những ai biểu lộ kết quả xứng đáng của sự ăn năn (Ma-thi-ơ 3:8) [4] và công nhận Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm là phần sót lại của Hội Thánh thật của Chúa [5] mới được làm báp-tem.
Hai điều kiện này hoàn toàn không có trong Thánh Kinh.
9. Tín đồ không được ăn thịt các loài vật không tinh sạch [6].
Thánh Kinh cho biết, thời Tân Ước Đức Chúa Trời đã làm tinh sạch mọi thức ăn không tinh sạch (Công Vụ Các Sứ Đồ 10:15; Rô-ma 14:14; I Ti-mô-thê 4:4).
10. Những ai chỉ thờ phượng Chúa vào chủ nhật, không thờ phượng Chúa vào ngày thứ bảy, là mang dấu ấn của con thú được mô tả trong Khải Huyền 13 [6].
Dấu ấn của con thú chỉ xuất hiện khi con thú lên ngôi (thời đại nạn, Hội Thánh đã được cất lên trước đó) và dấu ấn đó sẽ ở trên tay hoặc trên trán của người đón nhận nó để người đó có quyền mua bán chứ không phải sự nhóm họp thờ phượng Chúa vào chủ nhật là dấu ấn của con thú. Con dân của Chúa có thể nhóm họp thờ phượng Chúa vào bất kỳ lúc nào.
11. Chỉ những ai giữ ngày Sa-bát mới nhận được dấu ấn của Đức Chúa Trời và được cứu [7].
Dấu ấn của Đức Chúa Trời là Đức Thánh Linh ở trong chúng ta, do chính Đức Chúa Trời ban cho chúng ta khi chúng ta thật lòng ăn năn, từ bỏ tội, tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Jesus Christ và vui lòng sống theo Lời Chúa (Ê-phê-sô 4:30).
Kết Luận
Trên cơ bản đức tin Cơ-đốc về Ba Ngôi Đức Chúa Trời, về Thánh Kinh là Lời của Đức Chúa Trời, về tội lỗi, về sự cứu rỗi, về sự thánh hóa, và về sự sống đời đời thì người Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật tin đúng những gì Thánh Kinh dạy. Những tín lý và quan điểm thần học nghịch lại Thánh Kinh của Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật chẳng qua là hậu quả tất nhiên của sự hiểu sai một số Lời Chúa (II Phi-e-rơ 3:16) và sự dựa vào những điều gọi là “chiêm bao, khải tượng, thần cảm” hơn là dựa vào Lời Chúa. Tất cả các chiêm bao, khải tượng, thần cảm cần phải được đối chiếu với lẽ thật của Lời Chúa vì từ ngàn xưa đã có những sự chiêm bao, khải tượng (hiện thấy), và thần cảm không đến từ Đức Chúa Trời (Phục Truyền Luật Lệ Ký 13:1-5; Truyền Đạo 5:7; Giê-rê-mi 14:14; 23:25-32; Xa-cha-ri 10:2; II Tê-sa-lô-ni-ca 2:2).
Tất cả những sự dạy dỗ không có trong Thánh Kinh hoặc nghịch lại Thánh Kinh đều là “tà giáo” nghĩa là những sự dạy dỗ không đúng với lẽ thật (tà là không ngay thẳng, không chính đáng; giáo là sự dạy dỗ). Tuy nhiên, các giáo hội khác không có tư cách để gọi Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm là “tà giáo” vì chính trong các giáo hội đó cũng có những sự dạy dỗ không đúng với hoặc là không có trong Thánh Kinh. Thậm chí, “tà giáo” trong một số giáo hội tự cho là truyền thống, theo sát Thánh Kinh, lại có mức độ nguy hiểm trầm trọng đến nổi khiến cho tín đồ tin theo những sự dạy dỗ đó có thể bị mất sự cứu rỗi, như tà thuyết: “Tin Chúa một lần, được cứu vĩnh viễn,” dạy rằng, một người chỉ cần thật lòng tin nhận sự cứu rỗi của Đấng Christ là được cứu, cho dù sau đó đời sống của người ấy vẫn chưa từ bỏ tội lỗi.
Công bình mà nói, một người tin và sống theo những sự dạy dỗ của Giáo Hội Cơ Đốc Phục Lâm An Thất Nhật có nếp sống đạo chân thành và thánh khiết đúng với Lời Chúa hơn là một người tin vào tà thuyết “Tin Chúa một lần, được cứu vĩnh viễn.”
Là con dân Chúa, chúng ta có bổn phận “nhìn trái biết cây” để nhận diện các tiên tri giả và giáo sư giả (Ma-thi-ơ 7:15-23); chúng ta có bổn phận đối chiếu lời giảng dạy của bất cứ người nào với Thánh Kinh để xem lời giảng dạy ấy có đúng với Thánh Kinh hay không (Công Vụ Các Sứ Đồ 17:11). Là con dân Chúa chúng ta có bổn phận vâng giữ các điều răn của Chúa và sống như Đấng Christ đã sống, làm theo những gì Đấng Christ đã làm (I Giăng 2:3-6). Là con dân Chúa, chúng ta thuộc về Hội Thánh của Đức Chúa Trời, do Đấng Christ dùng huyết Ngài để lập nên (I Cô-rinh-tô 1:2; I Phi-e-rơ 2:9; Khải Huyền 1:6) chứ chúng ta không thuộc về một tổ chức tôn giáo nào, cho dù là những tổ chức mang danh Chúa, do loài người lập ra. Thẩm quyền tuyệt đối trên đời sống của con dân Chúa là Thánh Kinh, Lời Hằng Sống của Đức Chúa Trời (II Ti-mô-thê 3:16-17), chứ không phải giáo lý hay thẩm quyền của bất cứ một người nào hay một giáo hội nào. Để có sự khôn ngoan, hiểu biết đúng Lời Chúa, trước hết con dân Chúa cần có tấm lòng thuận phục, sẵn sàng vâng theo Lời Chúa (Giô-suê 1:8), kế tiếp, lấy đức tin cầu xin Chúa ban cho mình sự khôn ngoan, thông sáng (Gia-cơ 1:5).
Chú Thích & Tham Khảo
[1] Danh xưng “Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật”được dịch từtiếng Anh: “Seventh Day Adventist Church,” trong đó, từ ngữ Adventist có nghĩa là người mong chờ sự tái lâm (của Đấng Christ).
[2] http://news.adventist.org/2010/10/-about-2900-people-j.html
[3] http://www.adventist.org/beliefs/fundamental/index.html
[4] “Seventh-day Adventists Believe. A Biblical Exposition of 27 Fundamental Doctrines,” trang 180
[5] http://www.bible.ca/cr-SDA.htm - Official Seventh-day Adventist Baptismal Vows, #8 and #13.
[6] “Seventh-day Adventists Believe. A Biblical Exposition of 27 Fundamental Doctrines,” trang 285
[7] “The Great Controversy,” trang 605
- http://www.saintaquinas.com/Seventh_day.html
- http://www.adventist.org/
- http://www.religionfacts.com/christianity/denominations/seventh_day_adventist.htm
- http://en.wikipedia.org/wiki/Ellen_G._White
- http://en.wikipedia.org/wiki/Seventh-day_Adventist_Church
- http://en.wikipedia.org/wiki/History_of_the_Seventh-day_Adventist_Church
Huỳnh Christian Timothy
14.05.2011 2011 Vietnamese Christian Mission Ministry, Inc.
Dẫn Nhập
Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật còn được gọi cách vắn tắt là Cơ-đốc Phục Lâm [1]. Toàn bộ danh xưng này là tiếng Hán Việt: Cơ-đốc là Đấng Christ, Phục là trở lại, Lâm là đến, An là yên nghỉ, Thất là bảy, Nhật là ngày. Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật là một tổ chức tôn giáo tin rằng Đấng Christ sẽ tái lâm (phục lâm) một cách bất kỳ và tin rằng tín đồ của Đấng Christ phải thờ phượng Đức Chúa Trời vào ngày Sa-bát, tức ngày thứ bảy. Phần lớn những người ngoài Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật chỉ biết đến điểm nổi bật của giáo phái này trong sự giữ ngày Sa-bát, nhưng ít khi biết rõ các tín lý của Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật. Tín đồ Đấng Christ sinh hoạt trong các giáo hội, giáo phái Tin Lành thường được nghe các mục sư, truyền đạo nói rằng Cơ-đốc Phục Lâm là tà giáo nhưng sự thật thì ít khi được giải thích cho biết là “tà giáo” như thế nào. Từ đó, nảy sinh ra một ngộ nhận trong các giáo hội, giáo phái Tin Lành khiến cho những ai giữ ngày Sa-bát thì đều bị xếp loại là “Tà Giáo Cơ-đốc Phục Lâm.”
Trong bài viết này, tác giả sẽ trình bày những tín lý và quan điểm thần học nghịch Thánh Kinh của Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật.
Tưởng cũng cần nhắc đến các quan điểm sau đây của tác giả: (1) Các giáo hội, giáo phái, hệ phái chỉ là các tổ chức tôn giáo mang danh Chúa do loài người lập ra (I Cô-rinh-tô 3:3-4); con dân Chúa có mặt và sinh hoạt trong các giáo hội, giáo phái, hệ phái nhưng các tổ chức đó không phải là Hội Thánh của Chúa. Hội Thánh của Chúa là tất cả những người “đã được nên thánh trong Đức Chúa Jesus Christ” (I Cô-rinh-tô 1:1-2) tức là những người thật lòng ăn năn, từ bỏ tội, tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Jesus Christ, và vui lòng sống theo sự dạy dỗ của Thánh Kinh; họ được gọi là thân thể của Chúa, do chính Chúa cai trị. (2) Thánh Kinh là Lời của Đức Chúa Trời, hoàn toàn và chân thật, là tiêu chuẩn và thẩm quyền tuyệt đối của Đức Chúa Trời cho nếp sống đạo của Hội Thánh. Bất cứ sự dạy dỗ hoặc tổ chức nào trong các giáo hội, giáo phái, hệ phái mà không có trong Thánh Kinh, thì đều là ý riêng của loài người.
Lược Sử Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật
William Miller (15.02.1782 – 20.12.1849), một người Mỹ thuộc giáo Hội Báp-tít, là người khởi xướng phong trào “trông chờ Chúa tái lâm” vào giữa thế kỷ thứ 19. Miller dốc lòng tìm kiếm lẽ thật trong Thánh Kinh bằng cách bắt đầu đọc Thánh Kinh từ Sáng Thế Ký cho đến Khải Huyền. Trong khi đọc, ông suy gẫm cho đến khi tin rằng mình đã hiểu câu đang đọc thì mới đọc sang câu kế tiếp. Khi Miller đọc đến Đa-ni-ên 8 thì ông cho rằng thời khoảng “hai ngàn ba trăm buổi chiều và buổi mai” được nói đến trong câu 14 là thời khoảng từ khi có chiếu chỉ xây dựng lại Giê-ru-sa-lem (457 TCN) cho đến khi Đấng Christ tái lâm. Miller dùng nguyên tắc “ngày=năm” trong Dân Số Ký 14:34 và Ê-xê-chi-ên 4:5-6 để tính rằng: hai ngàn ba trăm buổi chiều và buổi mai = 2300 ngày = 2300 năm. Như vậy, theo Miller, Chúa sẽ tái lâm vào khoảng năm 1843 – 1844. Miller đưa ra lời tuyên bố về sự tính toán của ông vào năm 1818 và tiếp tục nghiên cứu thêm cho đến tháng 9 năm 1822 thì ông chính thức khẳng định sự tính toán của mình.
Đến năm 1831, Miller bắt đầu rao giảng lý thuyết và tính toán của ông về ngày Chúa tái lâm. Người tin theo Miller được gọi là “Cơ-đốc Phục Lâm.” Dầu vậy, những tiên đoán của ông về việc Chúa sẽ tái lâm vào tháng 10 năm 1843, hay mùa xuân năm 1844 đều không ứng nghiệm. Sau đó, một trong những người ủng hộ lý thuyết của Miller, là Samuel Snow, đã đưa ra tính toán mới là vào ngày 22 tháng 10 năm 1844 Đấng Christ sẽ tái lâm. Tuy nhiên, năm 1844 đã qua đi mà Đấng Christ vẫn chưa tái lâm, đem lại một sự thất vọng lớn cho trên 100,000 người tin theo Miller và Snow. Ông Miller đã chính thức nhận rằng mình sai, xin lỗi Hội Thánh, và rút lui ra khỏi sinh hoạt của Phong Trào Cơ-đốc Phục Lâm, rồi qua đời vào tháng 12 năm 1849. Nhiều người hoàn toàn từ bỏ lý thuyết của Miller nhưng cũng có những người tìm cách kiện toàn phương pháp tính toán và giải kinh của Miller để đưa ra những thời điểm mới về sự kiện Đấng Christ tái lâm.
Ban đầu, những người Cơ-đốc Phục Lâm chỉ nghiêng về sự kiện Chúa Tái Lâm và chưa chấp nhận tín lý giữ ngày Sa-bát. Vào khoảng đầu năm 1844, một thiếu nữ thuộc Giáo Phái Báp-tít Ngày Thứ Bảy (Seventh Day Baptist) tên là Rachel Oakes Preston đã giới thiệu tín lý giữ ngày Sa-bát cho những người Cơ-đốc Phục Lâm. Sau đó, tín lý giữ ngày Sa-bát trở thành một trong những tín lý quan trọng của những người Cơ-đốc Phục Lâm và đến năm 1860 thì họ chính thức dùng danh xưng Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật (Seventh Day Adventist).
Một trong những người tiếp tục triển khai lý thuyết của Miller và góp phần trong việc khai sinh ra Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật là bà Ellen White (26.11.1827 – 16.07.1915), xuất thân từ Giáo Hội Giám Lý (Methodist). Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật được chính thức thành lập vào ngày 21 tháng 5 năm 1863. Bà White cho biết bà được đem lên thiên đàng, nhận lãnh chỉ thị và khải tượng từ Chúa để thành lập Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật. Bà White tự xem mình là nữ tiên tri của Đức Chúa Trời và tín đồ Cơ-đốc Phục Lâm chấp nhận vai trò nữ tiên tri của bà. Thực tế, họ xem các sách do bà viết ra có thẩm quyền đứng hàng thứ nhì sau Thánh Kinh cho đức tin và nếp sống đạo của tín đồ Đấng Christ. Có thể nói, toàn thể hệ thống thần học của Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật dựa trên các tác phẩm của bà White. Tác phẩm chính là cuốn “The Great Controversy” (Cuộc Đối Nghịch Vĩ Đại) trình bày sự phản loạn của Satan chống nghịch lại Đức Chúa Trời và loài người là bãi chiến trường cho cuộc chiến giữa Đấng Christ và Satan. Bà White tin và dạy rằng lý thuyết của Miller và sự tính toán của Snow là đúng nhưng ngày 22 tháng 10 năm 1844 là ngày Đấng Christ từ nơi thánh bước vào nơi chí thánh trên thiên đàng để khởi sự cuộc phán xét những kẻ sống và kẻ chết trên đất.
Theo thống kê năm 2010 [2], Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm có trên 16 triệu 600 ngàn tín đồ (không kể trẻ em), là một tổ chức tôn giáo lớn, đứng hàng thứ 12 trên thế giới, còn xét về ảnh hưởng quốc tế thì đứng hàng thứ sáu. Riêng tại Việt Nam, từ năm 1915 đến 1927, Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm vào Việt nam truyền giáo tại các thành phố Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Lạng Sơn, Sàigòn, Chợ Lớn… và “Hội Thánh Cơ-đốc Phục Lâm” đầu tiên tại Sàigòn được thành lập vào đầu tháng 12 năm 1929.
Những Tín Lý Nghịch Thánh Kinh của Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật
Theo dòng lịch sử, tín lý của Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật có nhiều thay đổi. Từ năm 2005 cho đến nay, Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật có 28 Niềm Tin Căn Bản (28 Fundamentals) [3]. Trong 28 niềm tin căn bản đó, phần lớn phù hợp với sự dạy dỗ của Thánh Kinh nhưng có những điều được liệt kê dưới đây nghịch lại với sự dạy dỗ của Thánh Kinh:
1. Tín lý thứ 7 cho rằng mỗi người là một liên kết không thể phân chia bao gồm thể xác, trí tuệ, và tâm thần (body, mind, spirit).
Thánh Kinh dạy người là một thực thể bao gồm thể xác, linh hồn, và tâm thần (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23). Lời của Chúa có thể phân chia linh hồn, tâm thần, và thể xác (Hê-bơ-rơ 4:12). Linh hồn và tâm thần có thể rời khỏi thể xác khi sự chết thứ nhất xảy ra hoặc khi được thần cảm (Lu-ca 16:22-23; II Cô-rinh-tô 5:9; 12:1-5).
2. Tín lý thứ 13 cho rằng trong những ngày cuối cùng, giữa sự bội đạo lớn, một phần còn sót lại của Hội Thánh được gọi ra khỏi các tổ chức tôn giáo mang danh Chúa để vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời và đức tin trong Đấng Christ. Nhiệm vụ của phần còn sót lại là rao truyền sự phán xét sắp đến, công bố sự cứu rỗi trong Đức Chúa Jesus Christ, và loan báo sự tái lâm của Ngài. Nhiệm vụ này được tiêu biểu bởi ba thiên sứ trong Khải Huyền 14 và xảy ra đồng thời với sự phán xét trên thiên đàng, đem đến sự ăn năn và thay đổi trên đất.
Từ ngữ “sự phán xét trên thiên đàng” đề cập đến tín lý thứ 24 liên quan đến khải tượng của bà White về việc ngày 22 tháng 10 năm 1844 Đấng Christ thay vì tái lâm trên đất thì đã từ nơi thánh bước vào nơi chí thánh trên thiên đàng để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Thánh Kinh không hề nói đến sự kiện Đấng Christ phán xét kẻ sống và kẻ chết trong nơi chí thánh trong thiên đàng. Sách Khải Huyền từ đoạn 6 cho đến đoạn 19 là lời tiên tri về sự phán xét của Đức Chúa Trời trên thế gian sau khi Hội Thánh đã được đem ra khỏi thế gian.
3. Tín lý thứ 16 cho rằng Đấng Christ hiện diện trong sự dự Tiệc Thánh để gặp gở và thêm sức cho các tín đồ.
Thánh Kinh không hề dạy Đấng Christ hiện diện mỗi khi tín đồ dự Tiệc Thánh để gặp gở và thêm sức cho họ. Thánh Kinh dạy Đức Chúa Jesus ở cùng tín đồ cho đến khi tận thế (Ma-thi-ơ 28:20); Đức Cha và Đức Con ở trong những ai yêu mến Đấng Christ và vâng giữ lời Ngài (Giăng 14:23); Đức Thánh Linh ngự trong thân thể tín đồ và thân thể tín đồ trở thành đền thờ của Đức Chúa Trời (I Cô-rinh-tô 3:16; 6:19). Nói cách khác, Ba Ngôi Đức Chúa Trời ở trong những ai thuộc về Đấng Christ chứ không phải chỉ mỗi lần tín đồ dự Tiệc Thánh thì Đấng Christ mới hiện diện với họ. Chính Đấng Christ dạy rằng Tiệc Thánh là việc tín đồ làm để nhớ đến Chúa “Hãy làm điều này để nhớ đến Ta!” chứ không phải là việc làm để Chúa hiện diện và thêm sức cho tín đồ (I Cô-rinh-tô 11:24-25).
4. Tín lý thứ 18 cho rằng ân tứ nói tiên tri được thể hiện và ban cho bà Ellen White cùng với khoảng 2000 khải tượng và giấc mơ; các tác phẩm của bà có thẩm quyền và là nguồn lẽ thật tiếp tục nuôi dưỡng, dạy dỗ, dẫn dắt, bẻ trách và sửa trị Hội Thánh.
Trong thực tế, nhiều lời tiên tri của bà White đã không ứng nghiệm, (sẽ trình bày trong một bài viết khác khi có dịp). Mặt khác, cho dù 100% những ý tưởng được trình bày trong các tác phẩm của bà White phù hợp với sự dạy dỗ của Thánh Kinh thì cũng không vì đó mà các tác phẩm của bà trở thành thẩm quyền và nguồn lẽ thật cho Hội Thánh, huống chi, có những sự sai lạc với lời dạy của Thánh Kinh trong các tác phẩm của bà. Dưới đây là một vài thí dụ điển hình:
Ellen White viết:“Những người tiếp nhận Cứu Chúa, dù thật lòng đến đâu, cũng không nên dạy cho họ nói hay cảm nhận rằng họ đã được cứu.” (Nguyên văn: “Those who accept the Saviour, however sincere their conversion, should never be taught to say or feel that they are saved.” Christ’s Object Lessons, trang 155).
Thánh Kinh dạy:“Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời” (I Giăng 5:13).
Ellen White viết:“Đừng một người hầu việc Chúa nào trong chúng ta làm ra gương ác bằng cách ăn thịt. Họ và gia đình của họ phải sống đúng theo sự soi dẫn của sự cải biến sức khỏe. Đừng để cho những người hầu việc Chúa trong chúng ta thú vật hóa bản tính tự nhiên của họ và con cháu họ.” (Nguyên văn:“Let not any of our ministers set an evil example in the eating of flesh-meat. Let them and their families live up to the light of health reform. Let not our ministers animalize their own nature and the nature of their children.” Spalding and Magan, trang 211).
Thánh Kinh dạy:“Phàm vật chi hành động và có sự sống thì dùng làm đồ ăn cho các ngươi. Ta cho mọi vật đó như ta đã cho thứ cỏ xanh” (Sáng Thế Ký 9:3).
Ellen White viết:“Bị bệnh là phạm tội; vì tất cả các thứ bệnh đều là kết quả của sự phạm pháp.” (Nguyên văn: “It is a sin to be sick; for all sickness is the result of transgression.” Health Reformer, 01.08.1866).
Thánh Kinh dạy:“Sa-tan bèn lui ra trước mặt Đức Giê-hô-va, hành hại Gióp một bịnh ung độc, từ bàn chơn cho đến chót đầu” (Gióp 2:7).
5. Tín lý thứ 24 cho rằng vào năm 1844 Đấng Christ đã từ nơi thánh bước vào nơi chí thánh trên thiên đàng để hoàn tất công việc chuộc tội cho nhân loại bằng cách dùng huyết Ngài tẩy sạch đền thánh trên trời và phán xét kẻ sống và kẻ chết. Khi công tác này hoàn thành thì Đấng Christ sẽ tái lâm trên đất. Sự phán xét kẻ sống có nghĩa là phán xét những người đang sống trên đất từ khi Đấng Christ vào nơi chí thánh cho đến khi Ngài tái lâm; còn sự phán xét kẻ chết là phán xét những người tin Chúa đã chết trước thời điểm đó. Theo bà Ellen White thì ngày 22 tháng 10 năm 1844 là ngày Đấng Christ khởi sự thi hành sự phán xét.
Thánh Kinh cho biết Đấng Christ đã làm xong công tác chuộc tội cho nhân loại. Công tác đó hoàn thành khi Đấng Christ chết trên thập tự giá. Chính Ngài tuyên phán: “Xong” (Giăng 19:30)! Hê-bơ-rơ 9:12 chép rõ “Ngài đã vào nơi rất thánh một lần thì đủ hết, không dùng huyết của dê đực và của bò con, nhưng dùng chính huyết mình, mà được sự chuộc tội đời đời.” Động từ “vào” trong nguyên tác Hy-lạp của câu này thuộc thời quá khứ bất định để chỉ một việc đã hoàn thành trong thời quá khứ, nghĩa là trước khi thư Hê-bơ-rơ được viết. Như vậy, làm sao có chuyện đến năm 1844 thì Đức Chúa Jesus Christ mới vào nơi chí thánh? Thánh Kinh cũng không hề nói đến chuyện Đấng Christ thi hành sự phán xét kẻ sống và kẻ chết trong nơi chí thánh trên trời hoặc trước khi Ngài tái lâm trên đất. Thức tế, Thánh Kinh cho biết sau khi Hội Thánh được cất ra khỏi thế gian thì Đức Chúa Trời phán xét thế gian trong một thời kỳ bảy năm và sau khi trời cũ đất cũ qua đi thì Đấng Christ sẽ gọi những kẻ chết không thuộc về Chúa sống lại và phán xét mỗi người tùy theo công việc họ làm.
6. Tín lý thứ 26 cho rằng người chết thì không còn ý thức gì cả.
Đấng Christ phán rằng người chết vẫn có ý thức, có cảm giác và có trí nhớ. Câu chuyện về người nhà giàu tội lỗi và người ăn mày tên La-xa-rơ được chép lại trong Lu-ca 16:19-31 chứng minh điều đó. Ngoài ra, những thánh đồ tử đạo thời đại nạn vẫn có ý thức và biết kêu cầu xin Chúa báo trả những kẻ ác (Khải Huyền 6:9-10).
7. Tín lý thứ 27 cho rằng vương quốc ngàn năm bình an là ở trên trời, còn trái đất lúc đó bị bỏ hoang, không có người ở, chỉ có Satan và các quỷ sứ của nó. Cuối ngàn năm bình an thì thành thánh sẽ từ trời giáng xuống trên đất. Khi đó những kẻ ác sẽ sống lại, hợp với Sa-tan và các quỷ sứ của nó bao vây thành thánh nhưng lửa từ Đức Chúa Trời sẽ thiêu hủy họ và thanh tẩy trái đất. Từ đó, vũ trụ sẽ không còn tội nhân và tội lỗi nữa.
Thánh Kinh cho biết vương quốc ngàn năm là ở trên đất. Sa-tan bị giam trong vực sâu suốt một ngàn năm. Không có chuyện những kẻ ác sẽ sống lại vào cuối ngàn năm bình an để hợp sức với Sa-tan bao vây thành thánh từ trời giáng xuống. Thành thánh chỉ từ trời giáng xuống đất sau khi đã có trời mới đất mới, là lúc Sa-tan và những thiên sứ phạm tội cùng những người không thuộc về Chúa đã bị ném vào hồ lửa đời đời (Khải Huyền 20-22).
Ngoài 28 Niềm Tin Căn Bản, Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật còn có những quan điểm thần học không đúng với sự dạy dỗ của Thánh Kinh như sau:
8. Chỉ những ai biểu lộ kết quả xứng đáng của sự ăn năn (Ma-thi-ơ 3:8) [4] và công nhận Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm là phần sót lại của Hội Thánh thật của Chúa [5] mới được làm báp-tem.
Hai điều kiện này hoàn toàn không có trong Thánh Kinh.
9. Tín đồ không được ăn thịt các loài vật không tinh sạch [6].
Thánh Kinh cho biết, thời Tân Ước Đức Chúa Trời đã làm tinh sạch mọi thức ăn không tinh sạch (Công Vụ Các Sứ Đồ 10:15; Rô-ma 14:14; I Ti-mô-thê 4:4).
10. Những ai chỉ thờ phượng Chúa vào chủ nhật, không thờ phượng Chúa vào ngày thứ bảy, là mang dấu ấn của con thú được mô tả trong Khải Huyền 13 [6].
Dấu ấn của con thú chỉ xuất hiện khi con thú lên ngôi (thời đại nạn, Hội Thánh đã được cất lên trước đó) và dấu ấn đó sẽ ở trên tay hoặc trên trán của người đón nhận nó để người đó có quyền mua bán chứ không phải sự nhóm họp thờ phượng Chúa vào chủ nhật là dấu ấn của con thú. Con dân của Chúa có thể nhóm họp thờ phượng Chúa vào bất kỳ lúc nào.
11. Chỉ những ai giữ ngày Sa-bát mới nhận được dấu ấn của Đức Chúa Trời và được cứu [7].
Dấu ấn của Đức Chúa Trời là Đức Thánh Linh ở trong chúng ta, do chính Đức Chúa Trời ban cho chúng ta khi chúng ta thật lòng ăn năn, từ bỏ tội, tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Jesus Christ và vui lòng sống theo Lời Chúa (Ê-phê-sô 4:30).
Kết Luận
Trên cơ bản đức tin Cơ-đốc về Ba Ngôi Đức Chúa Trời, về Thánh Kinh là Lời của Đức Chúa Trời, về tội lỗi, về sự cứu rỗi, về sự thánh hóa, và về sự sống đời đời thì người Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật tin đúng những gì Thánh Kinh dạy. Những tín lý và quan điểm thần học nghịch lại Thánh Kinh của Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật chẳng qua là hậu quả tất nhiên của sự hiểu sai một số Lời Chúa (II Phi-e-rơ 3:16) và sự dựa vào những điều gọi là “chiêm bao, khải tượng, thần cảm” hơn là dựa vào Lời Chúa. Tất cả các chiêm bao, khải tượng, thần cảm cần phải được đối chiếu với lẽ thật của Lời Chúa vì từ ngàn xưa đã có những sự chiêm bao, khải tượng (hiện thấy), và thần cảm không đến từ Đức Chúa Trời (Phục Truyền Luật Lệ Ký 13:1-5; Truyền Đạo 5:7; Giê-rê-mi 14:14; 23:25-32; Xa-cha-ri 10:2; II Tê-sa-lô-ni-ca 2:2).
Tất cả những sự dạy dỗ không có trong Thánh Kinh hoặc nghịch lại Thánh Kinh đều là “tà giáo” nghĩa là những sự dạy dỗ không đúng với lẽ thật (tà là không ngay thẳng, không chính đáng; giáo là sự dạy dỗ). Tuy nhiên, các giáo hội khác không có tư cách để gọi Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm là “tà giáo” vì chính trong các giáo hội đó cũng có những sự dạy dỗ không đúng với hoặc là không có trong Thánh Kinh. Thậm chí, “tà giáo” trong một số giáo hội tự cho là truyền thống, theo sát Thánh Kinh, lại có mức độ nguy hiểm trầm trọng đến nổi khiến cho tín đồ tin theo những sự dạy dỗ đó có thể bị mất sự cứu rỗi, như tà thuyết: “Tin Chúa một lần, được cứu vĩnh viễn,” dạy rằng, một người chỉ cần thật lòng tin nhận sự cứu rỗi của Đấng Christ là được cứu, cho dù sau đó đời sống của người ấy vẫn chưa từ bỏ tội lỗi.
Công bình mà nói, một người tin và sống theo những sự dạy dỗ của Giáo Hội Cơ Đốc Phục Lâm An Thất Nhật có nếp sống đạo chân thành và thánh khiết đúng với Lời Chúa hơn là một người tin vào tà thuyết “Tin Chúa một lần, được cứu vĩnh viễn.”
Là con dân Chúa, chúng ta có bổn phận “nhìn trái biết cây” để nhận diện các tiên tri giả và giáo sư giả (Ma-thi-ơ 7:15-23); chúng ta có bổn phận đối chiếu lời giảng dạy của bất cứ người nào với Thánh Kinh để xem lời giảng dạy ấy có đúng với Thánh Kinh hay không (Công Vụ Các Sứ Đồ 17:11). Là con dân Chúa chúng ta có bổn phận vâng giữ các điều răn của Chúa và sống như Đấng Christ đã sống, làm theo những gì Đấng Christ đã làm (I Giăng 2:3-6). Là con dân Chúa, chúng ta thuộc về Hội Thánh của Đức Chúa Trời, do Đấng Christ dùng huyết Ngài để lập nên (I Cô-rinh-tô 1:2; I Phi-e-rơ 2:9; Khải Huyền 1:6) chứ chúng ta không thuộc về một tổ chức tôn giáo nào, cho dù là những tổ chức mang danh Chúa, do loài người lập ra. Thẩm quyền tuyệt đối trên đời sống của con dân Chúa là Thánh Kinh, Lời Hằng Sống của Đức Chúa Trời (II Ti-mô-thê 3:16-17), chứ không phải giáo lý hay thẩm quyền của bất cứ một người nào hay một giáo hội nào. Để có sự khôn ngoan, hiểu biết đúng Lời Chúa, trước hết con dân Chúa cần có tấm lòng thuận phục, sẵn sàng vâng theo Lời Chúa (Giô-suê 1:8), kế tiếp, lấy đức tin cầu xin Chúa ban cho mình sự khôn ngoan, thông sáng (Gia-cơ 1:5).
Chú Thích & Tham Khảo
[1] Danh xưng “Giáo Hội Cơ-đốc Phục Lâm An Thất Nhật”được dịch từtiếng Anh: “Seventh Day Adventist Church,” trong đó, từ ngữ Adventist có nghĩa là người mong chờ sự tái lâm (của Đấng Christ).
[2] http://news.adventist.org/2010/10/-about-2900-people-j.html
[3] http://www.adventist.org/beliefs/fundamental/index.html
[4] “Seventh-day Adventists Believe. A Biblical Exposition of 27 Fundamental Doctrines,” trang 180
[5] http://www.bible.ca/cr-SDA.htm - Official Seventh-day Adventist Baptismal Vows, #8 and #13.
[6] “Seventh-day Adventists Believe. A Biblical Exposition of 27 Fundamental Doctrines,” trang 285
[7] “The Great Controversy,” trang 605
- http://www.saintaquinas.com/Seventh_day.html
- http://www.adventist.org/
- http://www.religionfacts.com/christianity/denominations/seventh_day_adventist.htm
- http://en.wikipedia.org/wiki/Ellen_G._White
- http://en.wikipedia.org/wiki/Seventh-day_Adventist_Church
- http://en.wikipedia.org/wiki/History_of_the_Seventh-day_Adventist_Church
Huỳnh Christian Timothy
14.05.2011 2011 Vietnamese Christian Mission Ministry, Inc.
CƠ ĐỐC PHỤC LÂM
GIÁO HỘI NGÀY THỨ BẢY
( Phúc âm đời đời )
Để hiểu rõ hơn về CƠ ĐỐC PHỤC LÂM XIn đọc qua bài: Ý NGHĨ NGÀY SA-BÁT
I. Lịch sử:
William Miller, sống tại Law Hampton, NewYork đã tính con số trong sách Đaniên 8:14, có 2.300 ngày. Đã xác quyết niềm tin và tuyên bố năm 1844 Chúa Jêsus sẽ tái lâm. Bà Ellen G. White được xưng làNữ Tiên Tri ủng hộ mạnh mẽ thuyết 1844 Chúa tái lâm, bà đã viết rằng:
“Tuần lễ thứ 70 đã bắt đầu từ năm 457 TC và chấm dứt năm 34 SC. Ngày này chúng ta không khó để tính ra thời khoảng 2.300 ngày, 70 tuần lễ là 490 ngày. Vì vậy, 2.300-490 ta còn 1810 ngày, 1810 ngày bằng 1810 năm. Vậy, từ năm 34 tức đúng 1844 năm. Vì vậy, 2.300 ngày của Đaniên 8:14 chấm dứt năm 1844”. Nhưng đến thời điểm đó, Đấng Christ không tái lâm, để bào chữa cho ông Miller, bà White đã quả quyết rằng Chúa đã trở lại nhưng Ngài ngự trong nơi Thánh là giai đoạn 2 trong công cuộc để khởi đầu cuộc điều tra phán xét, để làm sạch nơi Thánh và chuẩn bị cho sự tái lâm hiện diện của Ngài sau đó.
Cho nên được gọi là Giáo Hội Cơ Đốc Phục Lâm, được chính thức thành lập năm 1864 tại Hoa Kỳ.
II. Giáo lý:
- Giai đoạn 2: Ngài bắt đầu thực hiện từ năm 1844 để phục hồi lại việc giữ luật pháp.
- Giai đoạn 3: Bà White đã thấy Đấng Christ vào nơi thánh làm công tác điều tra và Ngài chỉ vào điều răn thứ tư bảo phải giữ ngày Sabát – ngày thứ 7.
Đây chính là điểm chính của Cơ Đốc Phục Lâm. Tức là họ chủ trương phục hồi việc giữ ngày thứ 7 làm ngày nghỉ, ngày thánh, ngày thứ 7 như là ấn đời đời, là ngày thánh (Khải 7:3,4: 14:1,4: 5)
Họ chủ trương rằng:
- Họ lên án giữ ngày thứ I là mang dấu của con thú thứ 2 được chép trong Khải Huyền 13.
- Bỏ ngày thứ 7 là phạm luật pháp, không được cứu.
- Ngoài ra phải kiêng cử tất cả mọi vật mà luật pháp Môi se cho là ô uế.
- Kẻ ác được sống lại chịu phạt, xiềng trong 1000 năm bình an rồi bị tiêu diệt, không còn nữa, không có sự hình phạt đời đời.
III. Truyền giáo:
Cơ Đốc Phục Lâm tích cực sử dụng những phương tiện truyền thông để rao truyền phục hồi việc giữ luật pháp và ngày thứ 7.
- Truyền thanh: Radio là phương tiện được gọi là tiếng nói của lời tiên tri. Được phát đi mỗi ngày và đặc biệt là ngày Chúa nhật được các trạm tiếp âm truyền đến các lục địa qua mọi ngôn ngữ như Việt Nam có cơ quan An Bình và Hạnh Phúc Radio do MS Dương Quốc Tùng chủ nhiệm.
- Truyền thông bằng ấn bản nhỏ, có tích chuyên đề như “lẽ thật ngày sa bát” của Dương Quốc Tùng để truyền giữ ngày thứ bảy và lên án giữ ngày chúa nhật.
- Truyền giáo mở Hội thánh Cơ Đốc Phục Lâm An Thất Nhật, tài trợ cho người truyền giáo tại Việt Nam. mục tiêu của Cơ Đốc Phục Lâm (Phúc âm đời đời) là theo sát người Tin lành để cố gắng thuyết phục giữ ngày thứ 7 và kiêng các thức ăn đã qui định trong cựu ước. Dương Quốc Tùng đã sử dụng tên là PHÚC ÂM ĐỜI ĐỜI. Hiện nay, theo thống kê mới nhất , có khoảng 10 triệu tín hữu trên toàn thế giới.
TRẢ LỜI NHỮNG LÝ LUẬN CỦA CƠ ĐỐC PHỤC LÂM TRÊN LẼ THẬT KINH THÁNH.
Như phần đầu chúng ta đã học biết lẽ thật ngày sa bát mà Đức Chúa Trời muốn dân sự của Ngài biết qua sự yên nghĩ trong Chúa Jesus phục sinh. Chúng ta có thể căn cứ vào những luận điểm của Cô Đốc phục lâm thường sử dụng để trả lời theo như lẽ thật trong kinh thánh đã minh chứng:
1. Luật Sabát thứ 7 là đời đời
Đáp: Chỉ hạn chế trong Cựu Ước, tức là giao ước cũ và Đức Chúa Trời đã lập 1 giao ước mới trong Chúa Jêsus.
Lời Chúa phán: Có 1 ngày khác Sabát cho dân Đức Chúa Trời (Hêb 4:8,9).
Ngày Sa bát thứ 7 chấm dứt, cho nên trong Tân Ước, không còn đoán xét về sự ăn uống, ngày lễ, ngày Sabát cũng có nghĩa là không cần phải giữ nữa vì đó là tiên tri việc sẽ tới. Còn hình ở trong Đức Chúa Jêsus. (Côlôse 2:16,17)
Luật Sa Bát là đời đời. Chữ SABAT là yên nghỉ. Nhưng phải biết lẽ thật:
(1) - trong thời Cựu Ước là ngày Sa Bát thứ 7. Sáng .2:2;
(2 ) - Thời Tân Ước là ngày Sabát . Bước vào sự yên nghỉ trong Chúa Jêsus .(Hêb. 4:8-10). TỨC LÀ YÊN NGHỈ TRONG Chúa Phục Sinh. Mà ngày thứ 1 là ngày đánh dấu sự sống lại của Chúa Jesus.
(3) - Đến khi thế giới kết thúc , con dân Chúa, những kẻ được chọn. Ngày đêm thờ phượng, ca ngợi Đức Chúa Trời và Chiên con ( Bước vào sự yên nghỉ trọn vẹn trong Thiên Đàng. (Khải .7:9-17) sự yên nghỉ đời đời.
Trong cuốn “ngày sa bát đã bị bỏ” của ông Dương Thưởng có 2 lần trưng dẫn Hêb.4:4,10 ( trang sb7bb) và Hêb.4:4,9,10(trang sb11bb) Ông cố ý không trưng dẫn câu”Nếu Giô Suê cho họ yên nghỉ thì sau KHÔNG NÓI VỀ MỘT NGÀY KHÁC NỮA.VẬY THÌ CÓ MỘT NGÀY YÊN NGHỈ CHO DÂN ĐỨC CHÚA TRỜI..”Ông chỉ trưng dẫn”vì luận ngày thứ bảy có chép rằng: Ngày thứ bảy Đức Chúa Trời nghỉ cả công việc của Ngài. (bỏ câu 8) Vậy thì còn một ngày yên nghỉ cho dân Đức Chúa Trời..” Chứng tỏ ông Dương Thưởng đã đoạn chương thủ nghĩa để làm cho người đọc không biết về MỘT NGÀY KHÁC hầu bảo thủ cho ngày Sa bát thứ 7.
2.Cần phải giữ luật pháp, nếu không thì không được cứu.
Cơ Đốc phục lâm nói bỏ ngày Sabat thứ 7 là phạm hết luật pháp. Và ông Dương Quốc Tùng nói rằng, chỉ có người giữ ngày Sa bát thứ 7 mới là người được chọn. Ngay cả việc kiêng cử thức ăn, những thức ăn luật pháp Môi se cho là ô uế thì không được ăn.
Đáp: Trong thời ký hội thánh đầu tiên, khi các hội thánh dân ngoại tin Chúa Jesus, họ tin chắc sự cứu rỗi. Nhưng thời bấy giờ vẫn có người Giu Đa cũng tin Chúa và đi khắp các hội thánh vùng tiểu á để buộc những người tin Chúa Jesus phải giữ luật pháp Môi Se. Phaolô luôn lên án những người Giuđa buộc Hội thánh ngoại bang khi tin Chúa Jêsus phải giữ luật pháp là những tiên tri giả. Ma quỉ giả mạo giả Thiên sứ sáng láng, Kẻ giả hình theo ĐẠO LÝ CỦA QUỈ DỬ.( IICôrinhtô 11:12-15;Côlôse 2:18;Itimôthê 4:1-3 ).
- Điều đó bị Phao lô lên án là mê muội, ếm bùa (Galati 3:1-3), nhờ cậy việc làm của luật pháp để làm cho trọn , tức là lìa bỏ Đấng Christ.
- Kiêng cử, giữ ngày, tháng, năm là suy phục những lề thói của thế gian , việc tin Chúa trở nên vô ích. (Galati 4:9)
- Tuân giữ luật pháp trên văn tự là những người con của người nữ tôi mọi (Aga) vì 2 người nữ Aga và Sara đại diện cho 2 giao ước.
Aga là giao ước được lập tại núi Sinai.
SaRa là giao ước được lập trong Chúa Jêsus (Galati 4:21-31).
- Cậy nhờ luật pháp để trở nên công bình là lìa bỏ Đấng Christ (Galati 5:4).
- Cựu Ước chỉ là hình bóng chứ không còn thực hiện trên văn tự nữa. Nó chỉ mang ý nghĩa thiêng liêng, lời tiên tri và bóng về Chúa Jêsus.(Côlôse 2:16-17)
“Gọi ước đó là mới, thì đã xưng ước trước là cũ; vả, điều chi đã cũ đã già, thì gần tiêu mất đi” (Hêbơrơ 8:13). “Vậy thì Chúa đã bỏ điều trước để lập điều sau” (Hêbơrơ 10:9).
3. Tại sao Chúa Jêsus và Phaolô vẫn thường thờ phượng Chúa vào ngày thứ 7?
- Kinh thánh thường dùng chữ theo thói quen vì Chúa Jêsus và Phaolô đều là người Do Thái. Nhưng đối với Ngài và Phaolô thì ngày nào cũng là ngày của Chúa, ngày Thánh, không phải là ngày thứ 7, thứ 6,... cho nên thờ phượng Chúa trong ngày thứ 7 vẫn là ngày Thánh. Nhưng quan niệm của Chúa Jêsus và Phaolô khác hẳn với những người thông giáo và Pharisi (Giăng 4:20-24). Phaolô gặp người Giuđa thì nhóm thờ phượng Chúa với người Giuđa, còn các Hội thánh ngoại bang thì Phaolô thờ phượng Chúa trong ngày thứ I.
- Đến nhà hội để thờ phượng trong ngày Sabát – thứ 7 là điều kiện để rao giảng về Chúa Jêsus cho người Giuđa. Vì người Do Thái chỉ tập trung vào ngày thứ 7, Tại nhà Hội Chúa Jêsus đã dùng lời Êsai 61:1 để làm chứng về Ngài (Luca 4:16-19). Phaolô đến ngày Sabát để biện luận giảng về đạo Chúa Jêsus cho người Giuđa (Công vụ 17:2,3; 18:4). Ông đã sống như người Giuđa trong luật pháp để được người Giuđa, và với dân ngoại như người không có luật pháp để được dân ngoại (ICôr 9:19-21).
4. Lên án thờ phượng Chúa trong ngày thứ I là dấu ấn con thú thứ 2 (Khải huyền 13)
Trong sách 60 dữ kiện về ngày Sabát ông Dương Quốc Tùng đã lập luận:
Người giữ ngày thứ I là dấu ấn của con thú thứ 2 trong Khải huyền 13. Còn người giữ ngày thứ 7 là dấu ấn của những người được chuộc.
Đáp: Như vậy, ông Dương Quốc Tùng kết án các môn đồ nhóm lại trong ngày thứ I, Hội thánh đầu tiên nhóm lại trong ngày thứ I là dấu con thú Anti Christ. Lời kết án của ông Dương Quốc Tùng là vô căn cứ. Không chổ nào trong Khải huyền 13 nói dấu ấn đó là nhóm ngày thứ I cả. Nhưng đây chỉ là lời tiên tri về giáo hội công giáo, bởi các vị giáo hoàng thờ tượng hình và tượng nói tiếng người, đó là tượng Đức mẹ Fatima truyền thông điệp để thờ phượng tượng nữ đồng trinh. Thật sự trong bản văn được truyền đi trong năm 1978. Thông điệp thứ nhất đã ấn ký 666 ở dưới 10 điều thông điệp. Đế quốc La-mã lúc bấy giờ thờ thần mặt trời (đa thần giáo). Nhưng khi Hoàng đế Contantine ăn năn tin nhận Chúa Jêsus thì bỏ bái vật giáo, thờ một Đức Chúa Trời hằng sống , Thờ ba ngôi Thiên Chúa. Ông đã ra chiếu chỉ truyền toàn đế quốc phải giữ ngày thứ I như các môn đồ của Hội thánh đầu tiên để thờ phượng Chúa, cũng nhớ rằng Hoàng đế và cả đế quốc La-mã thờ Đức Chúa Trời ba ngôi là Đấng tạo hóa chứ không phải thờ thần Mặt trời.
Đó là chương trình của Đức Chúa Trời dùng vị vua La-mã đang cai trị thế giới rộng lớn để làm cho ảnh hưởng của Chúa Jêsus đến một ngôi vị cao nhất.
- Năm 1 để tính dương lịch liên quan đến sự Giáng sinh của Chúa Jêsus.
- Ngày thứ I trong tuần lễ là ngày thờ phượng Chúa phục sinh, là Đấng đầu hết trong mọi sự.
- Ông trưng dẫn Khải huyền 7:3-4 ; 14:1,4,5) dấu ấn được đóng trên những người được chuộc là những người giữ ngày Sabát, là ấn của Đức Chúa Trời, điều này hoàn toàn sai với lẽ thật. Vì kinh thánh chép rằng: “cho đến chừng nào chúng ta sẽ đóng ấn trên trán những tôi tớ Đức Chúa Trời chúng ta” “Danh Cha, chiên con ghi trên trán”. Đóng ấn cho những người được chuộc là chính Đức Thánh Linh. “Chớ làm buồn cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời vì nhờ Ngài mà anh em được ấn chứng cho đến ngày được cứu chuộc” (Êphêsô 4:30). Làm buồn cho Đức Thánh Linh không phải bỏ ngày thứ 7, nhưng sống một đời sống trong xác thịt tội lỗi. Ngay cả giữ luật pháp là hành động loại trừ, làm buồn lòng Đức Thánh Linh (Galati 3:3-5). Đã bị Phao lô lên án là tà giáo, ngu muội, bùa ếm... “Trong Ngài anh em đã tin và được ấn chứng bởi Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa, Đấng ấy làm của cầm về cơ nghiệp chúng ta, cho đến kỳ đã chuộc lấy những kẻ mà Ngài đã được để khen ngợi sự vinh hiển của Ngài” (Êphêsô 1:13,14).
5 - Bỏ ngày thứ 7 là bỏ điều răn thứ 4:
Điều nầy hoàn toàn không đúng, vì Cơ đốc giáo vẫn có ngày Sabát. Nhưng ngày Sabát của Chúa Jêsus có giá trị cao hơn ngày Sabát thứ 7 của Cựu Ước vì Chúa Jêsus phán rằng: “Con Người là Chúa của ngày Sabát ” (Mathiơ 12:8). Ngày Sabát trong Tân Ước làthời kỳ yên nghỉ trong Chúa Jesus mà đánh dấu cho ngày Chúa phục sinh là ngày thứ I trong tuần lễ.
Hội thánh vẫn có điều răn thứ 4 nhưng không còn là Sabát - thứ7 ( sự chết) mà là Sabát thứ I (sự Sống). Kinh Thánh có chép sẽ có một ngày khác nữa, vậy thì còn một ngày yên nghỉ cho dân Đức Chúa Trời, đó là NGÀY PHỤC SINH, yên nghỉ trong sự sống phục sinh của Chúa Jêsus.
- Chúa là số 1 của con chứ không phải là cuối.
- Chúa trước hết chứ không phải vật chất, tiền,
thế gian trước.
- Thờ một Chúa là Đấng sống chứ không phải Chúa chết.
( tìm Chúa trong ngày thứ 7 là tìm Chúa CHẾT).
- Chúa là Đấng mọi sự trong mọi sự chứ không phải chỉ
là 1 ngày cuối trong tuần.
- Bước vào ngày thứ I là bước vào một GIAO ƯỚC MỚI. Bước vào một thời kỳ yên nghỉ ( Sabát) trong Chúa Jêsus.
Halêlugia. Sự sống phục sinh là biểu lộ cho quyền năng của giao ước mới. AMEN.
6 – NHỮNG BIỆN LUẬN ĐỂ BÁT BỎ NGÀY THỨ NHẤT:
Trong cuốn “lẽ thật ngày Sabát” của DQT.
a – (Trong sách “Lẽ thật ngày Sa bát” trang 162) ông Dương Quốc Tùng trưng dẫn 6 câu Kinh thánh Mathiơ 28:1; Mác 16:1,2 ; 16:9 ; Luca 24:1 ; Giăng 20:1. Nói về những người đàn bà đi xức xác cho Chúa và ông nói rằng không chổ nào nói ngày thứ I là ngày Thánh. Ông phải nhớ rằng các người đàn bà đó đang đi tìm Chúa trong MỒ. KHÔNG CÓ CHÚA. Chúa không phải là một xác chết của ngày hôm qua.
NGÀY THỨ 7. Nhưng nơi nào có sự hiện diện của Chúa là nơi THÁNH. Kinh thánh chép: “Nội chiều ngày đó, LÀ NGÀY THỨ NHẤT TRONG TUẦN LỄ, nơi các môn đồ ở, CHÚA JÊSUS ĐẾN ĐỨNG CHÍNH GIỮA HỌ MÀ PHÁN RẰNG: BÌNH AN CHO CÁC NGƯƠI” (Giăng 20:19). Giá trị là CÓ SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA. Ông DQT. còn dùng chữ ‘Môn Đồ họp lại để ĂN MỪNG CHÚA PHỤC SINH’ như châm biếm những người ủng hộ ngày thứ I là ngày các môn đồ họp lại để ĂN MỪNG. Nhưng rõ ràng Kinh thánh không ghi chữ Ăn Mừng vì lúc này các môn đồ ĐANG SỢ, đó là tâm trạng của các môn đồ Kinh Thánh ghi rõ ai cũng biết. Nhưng đó là tâm trạng của họ trước khi Chúa hiện đến. Ông DQT dừng lại ở đó để nói rằng ngày thứ nhất không phải là ngày thánh. Ông nói “Họ họp nhau không phải để thờ phượng, nếu họ họp lại để thờ phượng thì họ vào nhà hội...” Nhưng Chúng ta nên nhớ rằng, KHI CHÚA JÊSUS HIỆN RA THÌ CÁC MÔN ĐỒ ĐẦY SỰ VUI MỪNG. Khi Ma-ri thấy Chúa sống vào sáng ngày thứ I thì “…ĐẾN GẦN, ÔM CHÂN NGÀI VÀ THỜ LẠY NGÀI” (Mat.28:9). Khi Chúa hiện ra với các môn đồ lần đầu tiên thì Kinh Thánh chép: “ KHI MÔN ĐỒ THẤY NGÀI THÌ THỜ LẠY NGÀI. Như vậy rõ ràng, khi Chúa Phục Sinh hiện đến thì các Môn Đồ ĐẦY VUI MỪNG VÀ THỜ LẠY NGÀI. Thờ phượng Chúa trong NGÀY THỨ NHẤT, thờ phượng Chúa là ngày Thánh, vì Chúa Jêsus là CHÚA CỦA NGÀY SA BÁT.
b - Ông DQT cho rằng Phao lô nói với HT Cô-rinh-tô CỨ NGÀY ĐẦU TUẦN Không phải là ngày thờ phượng nhưng là ngày bắt đầu dành tiền dâng hiến. (trang 165 LT ngày SB)
Chúng ta xem lại mạch văn “CỨ NGÀY ĐẦU TUẦN LỄ, Mỗi người trong anh em khá tùy sức mình chắc lót được bao nhiều thì để dành tại nhà mình, HẦU CHO KHỎI ĐỢI TÔI ĐẾN RỒI MỚI GÓP” (I Côr. 16:2). Mội bản dịch mới khác do nhóm phiên dịch thế giới. Bản dịch sát nhất với nguyên ngữ Hy-lạp “Vào ngày đầu tuần, mỗi anh chị em dành riêng ra một số tiền tùy khả năng. Làm như thế thì không cần phải đợi tôi đến rồi mới thu góp”. Điều này có ý nghĩ là CỨ NGÀY ĐẦU TUẦN LÀ DÂNG HIẾN, CHỨ KHÔNG ĐỢI PHAO-LÔ ĐẾN RỒI MỚI DÂNG HIẾN. Và đây không phải là cách làm chỉ của Hội Thánh Cô-rinh-tô mà là của tất cả các Hội Thánh miền Ga-li-lê. Tất nhiên ai cũng biết rằng, từ trước đến nay, ngay cả Cựu Ước sự dâng hiến đều thực hiện lúc HỘI THÁNH NHÓM LẠI.
c – Buổi nhóm ngày thứ I tại Hội thánh Trô-ách ông Dương Quốc Tùng nói rằng: “Mục đích của buổi nhóm này không phải để ĂN MỪNG SỰ SỐNG LẠI CỦA CHÚA JÊSUS như một số người thường nói...Đây là buổi nhóm họp để chia tay???.
- Qua những lời trên chứng tỏ Ông DQT. luôn bài xích về sự VUI MỪNG VỀ MỘT CHÚA PHỤC SINH. Phải biết rằng đời sống cơ Đốc Nhân lúc nào cũng phải VUI MỪNG, VUI MỪNG MÃI MÃI (IITê 5:16,17). Vì sự hiện diện thường trú của Chúa Phục Sinh trong đời sống của Cơ Đốc Nhân.
- Buổi nhóm này là buổi nhóm để THỜ PHƯỢNG CHÚA. Lẽ tất nhiên, Phao-lô muốn ở lại với Hội Thánh Trô-ách để nhóm với Hội Thánh trong ngày Chúa Nhật (ngày thứ I) rồi thứ 2 (ngày mai) ông sẽ ra đi. “Ngày thứ nhất trong tuần lễ, chúng ta đang nhóm lại để bẻ bánh; Phao-lô phải đi ngày mai, nên người nói chuyện, cứ GIẢNG luôn cho đến nữa đêm....GIẢNG LUẬN cho đến sáng”(Công vụ.20:7-12). Như vậy buổi nhóm thờ phượng Chúa có LỄ BẺ BÁNH, CÓ GIẢNG LUẬN, cũng có nghỉ một lúc để nói chuyện (thông công).
- Ông DQT còn nói rằng: Tối thứ 7 hay sáng Chúa Nhật? Ông lý luận rằng: “Buổi nhóm chưa chắc diễn ra vào sáng Chúa nhật .... một ngày bắt đầu từ ban đêm và ban ngày sau... như vậy, thực ra là vào tốt thứ 7, vì kinh thánh ghi: “có nhiều đèn trong phòng cao mà chúng ta đương nhóm lại” !? Như vậy, Ông DQT nên gạch bỏ chữ NGÀY THỨ NHẤT TRONG TUẦN LỄ trong Kinh Thánh, có lẽ ông ước rằng đừng có câu này thì dễ nói là ngày thứ 7 hơn. Dầu vậy, ông vẫn cứ nói khi ông trưng dẫn có nhiều đèn trên phòng cao...?! Phải nhớ là NGÀY thứ nhất, chứ không phải tối ngày thứ 7. Rồi gì nữa: cứ giảng luôn CHO ĐẾN NỮA ĐÊM. Thời gian từ ban ngày cho đến ban đêm, cũng có nghỉ thông công (nói chuyện). Chính vì vậy mới có đèn nhiều để soi sáng vào tối chúa nhật chứ. Như vậy ông DQT thần tượng ngày thứ 7 cho nên muốn SỬA KINH THÁNH.
Chúng ta cũng hiểu rằng: có những người không bao giờ tin sự yên nghỉ trong Chúa Phục Sinh cho nên họ dùng những lý luận để bác bỏ. Họ sẽ không bao giờ ĂN NĂN, đúng như Hêb. 4:3-7 Chúa phán: “Chúng nó sẽ chẳng hề vào sự yên nghỉ Ta!...” “.. Vì những kẻ nghe Tin lành ấy trước nhất đã không vào đó, BỞI CHẲNG TIN.”
Chúng ta hãy cầu nguyện và nhờ Đức Thánh Linh giảng giải cho người Cơ Đốc Phục Lâm hiểu rõ ý nghĩa Sabát trong Chúa Jêsus phục sinh để họ bước vào trong quyền năng của Đức Thánh Linh. Không còn cậy việc làm của xác thịt, họ nhận được sự cứu rỗi trọn vẹn trong Chúa Jêsus, để họ tôn vinh xứng đáng cho danh Đức Chúa Jêsus. AMEN.
GIÁO HỘI NGÀY THỨ BẢY
( Phúc âm đời đời )
Để hiểu rõ hơn về CƠ ĐỐC PHỤC LÂM XIn đọc qua bài: Ý NGHĨ NGÀY SA-BÁT
I. Lịch sử:
William Miller, sống tại Law Hampton, NewYork đã tính con số trong sách Đaniên 8:14, có 2.300 ngày. Đã xác quyết niềm tin và tuyên bố năm 1844 Chúa Jêsus sẽ tái lâm. Bà Ellen G. White được xưng làNữ Tiên Tri ủng hộ mạnh mẽ thuyết 1844 Chúa tái lâm, bà đã viết rằng:
“Tuần lễ thứ 70 đã bắt đầu từ năm 457 TC và chấm dứt năm 34 SC. Ngày này chúng ta không khó để tính ra thời khoảng 2.300 ngày, 70 tuần lễ là 490 ngày. Vì vậy, 2.300-490 ta còn 1810 ngày, 1810 ngày bằng 1810 năm. Vậy, từ năm 34 tức đúng 1844 năm. Vì vậy, 2.300 ngày của Đaniên 8:14 chấm dứt năm 1844”. Nhưng đến thời điểm đó, Đấng Christ không tái lâm, để bào chữa cho ông Miller, bà White đã quả quyết rằng Chúa đã trở lại nhưng Ngài ngự trong nơi Thánh là giai đoạn 2 trong công cuộc để khởi đầu cuộc điều tra phán xét, để làm sạch nơi Thánh và chuẩn bị cho sự tái lâm hiện diện của Ngài sau đó.
Cho nên được gọi là Giáo Hội Cơ Đốc Phục Lâm, được chính thức thành lập năm 1864 tại Hoa Kỳ.
II. Giáo lý:
- Chúa Jêsus tái lâm năm 1844, nhưng chưa thấy Chúa tái lâm, bà White được xưng là Nữ Tiên Tri. Đã nói là Chúa Phục lâm trong nơi thánh cách vô hình để điều tra làm cho thánh trước khi Chúa tái lâm thực tế.
- Phải giữ luật pháp và đặc biệt là ngày thứ 7 ở điều răn thứ tư. Theo chủ trương của bà G.White có 3 giai đoạn trong công tác cứu chuộc:
- Giai đoạn 2: Ngài bắt đầu thực hiện từ năm 1844 để phục hồi lại việc giữ luật pháp.
- Giai đoạn 3: Bà White đã thấy Đấng Christ vào nơi thánh làm công tác điều tra và Ngài chỉ vào điều răn thứ tư bảo phải giữ ngày Sabát – ngày thứ 7.
Đây chính là điểm chính của Cơ Đốc Phục Lâm. Tức là họ chủ trương phục hồi việc giữ ngày thứ 7 làm ngày nghỉ, ngày thánh, ngày thứ 7 như là ấn đời đời, là ngày thánh (Khải 7:3,4: 14:1,4: 5)
Họ chủ trương rằng:
- Họ lên án giữ ngày thứ I là mang dấu của con thú thứ 2 được chép trong Khải Huyền 13.
- Bỏ ngày thứ 7 là phạm luật pháp, không được cứu.
- Ngoài ra phải kiêng cử tất cả mọi vật mà luật pháp Môi se cho là ô uế.
- Kẻ ác được sống lại chịu phạt, xiềng trong 1000 năm bình an rồi bị tiêu diệt, không còn nữa, không có sự hình phạt đời đời.
III. Truyền giáo:
Cơ Đốc Phục Lâm tích cực sử dụng những phương tiện truyền thông để rao truyền phục hồi việc giữ luật pháp và ngày thứ 7.
- Truyền thanh: Radio là phương tiện được gọi là tiếng nói của lời tiên tri. Được phát đi mỗi ngày và đặc biệt là ngày Chúa nhật được các trạm tiếp âm truyền đến các lục địa qua mọi ngôn ngữ như Việt Nam có cơ quan An Bình và Hạnh Phúc Radio do MS Dương Quốc Tùng chủ nhiệm.
- Truyền thông bằng ấn bản nhỏ, có tích chuyên đề như “lẽ thật ngày sa bát” của Dương Quốc Tùng để truyền giữ ngày thứ bảy và lên án giữ ngày chúa nhật.
- Truyền giáo mở Hội thánh Cơ Đốc Phục Lâm An Thất Nhật, tài trợ cho người truyền giáo tại Việt Nam. mục tiêu của Cơ Đốc Phục Lâm (Phúc âm đời đời) là theo sát người Tin lành để cố gắng thuyết phục giữ ngày thứ 7 và kiêng các thức ăn đã qui định trong cựu ước. Dương Quốc Tùng đã sử dụng tên là PHÚC ÂM ĐỜI ĐỜI. Hiện nay, theo thống kê mới nhất , có khoảng 10 triệu tín hữu trên toàn thế giới.
TRẢ LỜI NHỮNG LÝ LUẬN CỦA CƠ ĐỐC PHỤC LÂM TRÊN LẼ THẬT KINH THÁNH.
Như phần đầu chúng ta đã học biết lẽ thật ngày sa bát mà Đức Chúa Trời muốn dân sự của Ngài biết qua sự yên nghĩ trong Chúa Jesus phục sinh. Chúng ta có thể căn cứ vào những luận điểm của Cô Đốc phục lâm thường sử dụng để trả lời theo như lẽ thật trong kinh thánh đã minh chứng:
1. Luật Sabát thứ 7 là đời đời
Đáp: Chỉ hạn chế trong Cựu Ước, tức là giao ước cũ và Đức Chúa Trời đã lập 1 giao ước mới trong Chúa Jêsus.
Lời Chúa phán: Có 1 ngày khác Sabát cho dân Đức Chúa Trời (Hêb 4:8,9).
Ngày Sa bát thứ 7 chấm dứt, cho nên trong Tân Ước, không còn đoán xét về sự ăn uống, ngày lễ, ngày Sabát cũng có nghĩa là không cần phải giữ nữa vì đó là tiên tri việc sẽ tới. Còn hình ở trong Đức Chúa Jêsus. (Côlôse 2:16,17)
Luật Sa Bát là đời đời. Chữ SABAT là yên nghỉ. Nhưng phải biết lẽ thật:
(1) - trong thời Cựu Ước là ngày Sa Bát thứ 7. Sáng .2:2;
(2 ) - Thời Tân Ước là ngày Sabát . Bước vào sự yên nghỉ trong Chúa Jêsus .(Hêb. 4:8-10). TỨC LÀ YÊN NGHỈ TRONG Chúa Phục Sinh. Mà ngày thứ 1 là ngày đánh dấu sự sống lại của Chúa Jesus.
(3) - Đến khi thế giới kết thúc , con dân Chúa, những kẻ được chọn. Ngày đêm thờ phượng, ca ngợi Đức Chúa Trời và Chiên con ( Bước vào sự yên nghỉ trọn vẹn trong Thiên Đàng. (Khải .7:9-17) sự yên nghỉ đời đời.
Trong cuốn “ngày sa bát đã bị bỏ” của ông Dương Thưởng có 2 lần trưng dẫn Hêb.4:4,10 ( trang sb7bb) và Hêb.4:4,9,10(trang sb11bb) Ông cố ý không trưng dẫn câu”Nếu Giô Suê cho họ yên nghỉ thì sau KHÔNG NÓI VỀ MỘT NGÀY KHÁC NỮA.VẬY THÌ CÓ MỘT NGÀY YÊN NGHỈ CHO DÂN ĐỨC CHÚA TRỜI..”Ông chỉ trưng dẫn”vì luận ngày thứ bảy có chép rằng: Ngày thứ bảy Đức Chúa Trời nghỉ cả công việc của Ngài. (bỏ câu 8) Vậy thì còn một ngày yên nghỉ cho dân Đức Chúa Trời..” Chứng tỏ ông Dương Thưởng đã đoạn chương thủ nghĩa để làm cho người đọc không biết về MỘT NGÀY KHÁC hầu bảo thủ cho ngày Sa bát thứ 7.
2.Cần phải giữ luật pháp, nếu không thì không được cứu.
Cơ Đốc phục lâm nói bỏ ngày Sabat thứ 7 là phạm hết luật pháp. Và ông Dương Quốc Tùng nói rằng, chỉ có người giữ ngày Sa bát thứ 7 mới là người được chọn. Ngay cả việc kiêng cử thức ăn, những thức ăn luật pháp Môi se cho là ô uế thì không được ăn.
Đáp: Trong thời ký hội thánh đầu tiên, khi các hội thánh dân ngoại tin Chúa Jesus, họ tin chắc sự cứu rỗi. Nhưng thời bấy giờ vẫn có người Giu Đa cũng tin Chúa và đi khắp các hội thánh vùng tiểu á để buộc những người tin Chúa Jesus phải giữ luật pháp Môi Se. Phaolô luôn lên án những người Giuđa buộc Hội thánh ngoại bang khi tin Chúa Jêsus phải giữ luật pháp là những tiên tri giả. Ma quỉ giả mạo giả Thiên sứ sáng láng, Kẻ giả hình theo ĐẠO LÝ CỦA QUỈ DỬ.( IICôrinhtô 11:12-15;Côlôse 2:18;Itimôthê 4:1-3 ).
- Điều đó bị Phao lô lên án là mê muội, ếm bùa (Galati 3:1-3), nhờ cậy việc làm của luật pháp để làm cho trọn , tức là lìa bỏ Đấng Christ.
- Kiêng cử, giữ ngày, tháng, năm là suy phục những lề thói của thế gian , việc tin Chúa trở nên vô ích. (Galati 4:9)
- Tuân giữ luật pháp trên văn tự là những người con của người nữ tôi mọi (Aga) vì 2 người nữ Aga và Sara đại diện cho 2 giao ước.
Aga là giao ước được lập tại núi Sinai.
SaRa là giao ước được lập trong Chúa Jêsus (Galati 4:21-31).
- Cậy nhờ luật pháp để trở nên công bình là lìa bỏ Đấng Christ (Galati 5:4).
- Cựu Ước chỉ là hình bóng chứ không còn thực hiện trên văn tự nữa. Nó chỉ mang ý nghĩa thiêng liêng, lời tiên tri và bóng về Chúa Jêsus.(Côlôse 2:16-17)
“Gọi ước đó là mới, thì đã xưng ước trước là cũ; vả, điều chi đã cũ đã già, thì gần tiêu mất đi” (Hêbơrơ 8:13). “Vậy thì Chúa đã bỏ điều trước để lập điều sau” (Hêbơrơ 10:9).
3. Tại sao Chúa Jêsus và Phaolô vẫn thường thờ phượng Chúa vào ngày thứ 7?
- Kinh thánh thường dùng chữ theo thói quen vì Chúa Jêsus và Phaolô đều là người Do Thái. Nhưng đối với Ngài và Phaolô thì ngày nào cũng là ngày của Chúa, ngày Thánh, không phải là ngày thứ 7, thứ 6,... cho nên thờ phượng Chúa trong ngày thứ 7 vẫn là ngày Thánh. Nhưng quan niệm của Chúa Jêsus và Phaolô khác hẳn với những người thông giáo và Pharisi (Giăng 4:20-24). Phaolô gặp người Giuđa thì nhóm thờ phượng Chúa với người Giuđa, còn các Hội thánh ngoại bang thì Phaolô thờ phượng Chúa trong ngày thứ I.
- Đến nhà hội để thờ phượng trong ngày Sabát – thứ 7 là điều kiện để rao giảng về Chúa Jêsus cho người Giuđa. Vì người Do Thái chỉ tập trung vào ngày thứ 7, Tại nhà Hội Chúa Jêsus đã dùng lời Êsai 61:1 để làm chứng về Ngài (Luca 4:16-19). Phaolô đến ngày Sabát để biện luận giảng về đạo Chúa Jêsus cho người Giuđa (Công vụ 17:2,3; 18:4). Ông đã sống như người Giuđa trong luật pháp để được người Giuđa, và với dân ngoại như người không có luật pháp để được dân ngoại (ICôr 9:19-21).
4. Lên án thờ phượng Chúa trong ngày thứ I là dấu ấn con thú thứ 2 (Khải huyền 13)
Trong sách 60 dữ kiện về ngày Sabát ông Dương Quốc Tùng đã lập luận:
Người giữ ngày thứ I là dấu ấn của con thú thứ 2 trong Khải huyền 13. Còn người giữ ngày thứ 7 là dấu ấn của những người được chuộc.
Đáp: Như vậy, ông Dương Quốc Tùng kết án các môn đồ nhóm lại trong ngày thứ I, Hội thánh đầu tiên nhóm lại trong ngày thứ I là dấu con thú Anti Christ. Lời kết án của ông Dương Quốc Tùng là vô căn cứ. Không chổ nào trong Khải huyền 13 nói dấu ấn đó là nhóm ngày thứ I cả. Nhưng đây chỉ là lời tiên tri về giáo hội công giáo, bởi các vị giáo hoàng thờ tượng hình và tượng nói tiếng người, đó là tượng Đức mẹ Fatima truyền thông điệp để thờ phượng tượng nữ đồng trinh. Thật sự trong bản văn được truyền đi trong năm 1978. Thông điệp thứ nhất đã ấn ký 666 ở dưới 10 điều thông điệp. Đế quốc La-mã lúc bấy giờ thờ thần mặt trời (đa thần giáo). Nhưng khi Hoàng đế Contantine ăn năn tin nhận Chúa Jêsus thì bỏ bái vật giáo, thờ một Đức Chúa Trời hằng sống , Thờ ba ngôi Thiên Chúa. Ông đã ra chiếu chỉ truyền toàn đế quốc phải giữ ngày thứ I như các môn đồ của Hội thánh đầu tiên để thờ phượng Chúa, cũng nhớ rằng Hoàng đế và cả đế quốc La-mã thờ Đức Chúa Trời ba ngôi là Đấng tạo hóa chứ không phải thờ thần Mặt trời.
Đó là chương trình của Đức Chúa Trời dùng vị vua La-mã đang cai trị thế giới rộng lớn để làm cho ảnh hưởng của Chúa Jêsus đến một ngôi vị cao nhất.
- Năm 1 để tính dương lịch liên quan đến sự Giáng sinh của Chúa Jêsus.
- Ngày thứ I trong tuần lễ là ngày thờ phượng Chúa phục sinh, là Đấng đầu hết trong mọi sự.
- Ông trưng dẫn Khải huyền 7:3-4 ; 14:1,4,5) dấu ấn được đóng trên những người được chuộc là những người giữ ngày Sabát, là ấn của Đức Chúa Trời, điều này hoàn toàn sai với lẽ thật. Vì kinh thánh chép rằng: “cho đến chừng nào chúng ta sẽ đóng ấn trên trán những tôi tớ Đức Chúa Trời chúng ta” “Danh Cha, chiên con ghi trên trán”. Đóng ấn cho những người được chuộc là chính Đức Thánh Linh. “Chớ làm buồn cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời vì nhờ Ngài mà anh em được ấn chứng cho đến ngày được cứu chuộc” (Êphêsô 4:30). Làm buồn cho Đức Thánh Linh không phải bỏ ngày thứ 7, nhưng sống một đời sống trong xác thịt tội lỗi. Ngay cả giữ luật pháp là hành động loại trừ, làm buồn lòng Đức Thánh Linh (Galati 3:3-5). Đã bị Phao lô lên án là tà giáo, ngu muội, bùa ếm... “Trong Ngài anh em đã tin và được ấn chứng bởi Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa, Đấng ấy làm của cầm về cơ nghiệp chúng ta, cho đến kỳ đã chuộc lấy những kẻ mà Ngài đã được để khen ngợi sự vinh hiển của Ngài” (Êphêsô 1:13,14).
5 - Bỏ ngày thứ 7 là bỏ điều răn thứ 4:
Điều nầy hoàn toàn không đúng, vì Cơ đốc giáo vẫn có ngày Sabát. Nhưng ngày Sabát của Chúa Jêsus có giá trị cao hơn ngày Sabát thứ 7 của Cựu Ước vì Chúa Jêsus phán rằng: “Con Người là Chúa của ngày Sabát ” (Mathiơ 12:8). Ngày Sabát trong Tân Ước làthời kỳ yên nghỉ trong Chúa Jesus mà đánh dấu cho ngày Chúa phục sinh là ngày thứ I trong tuần lễ.
Hội thánh vẫn có điều răn thứ 4 nhưng không còn là Sabát - thứ7 ( sự chết) mà là Sabát thứ I (sự Sống). Kinh Thánh có chép sẽ có một ngày khác nữa, vậy thì còn một ngày yên nghỉ cho dân Đức Chúa Trời, đó là NGÀY PHỤC SINH, yên nghỉ trong sự sống phục sinh của Chúa Jêsus.
- Chúa là số 1 của con chứ không phải là cuối.
- Chúa trước hết chứ không phải vật chất, tiền,
thế gian trước.
- Thờ một Chúa là Đấng sống chứ không phải Chúa chết.
( tìm Chúa trong ngày thứ 7 là tìm Chúa CHẾT).
- Chúa là Đấng mọi sự trong mọi sự chứ không phải chỉ
là 1 ngày cuối trong tuần.
- Bước vào ngày thứ I là bước vào một GIAO ƯỚC MỚI. Bước vào một thời kỳ yên nghỉ ( Sabát) trong Chúa Jêsus.
Halêlugia. Sự sống phục sinh là biểu lộ cho quyền năng của giao ước mới. AMEN.
6 – NHỮNG BIỆN LUẬN ĐỂ BÁT BỎ NGÀY THỨ NHẤT:
Trong cuốn “lẽ thật ngày Sabát” của DQT.
a – (Trong sách “Lẽ thật ngày Sa bát” trang 162) ông Dương Quốc Tùng trưng dẫn 6 câu Kinh thánh Mathiơ 28:1; Mác 16:1,2 ; 16:9 ; Luca 24:1 ; Giăng 20:1. Nói về những người đàn bà đi xức xác cho Chúa và ông nói rằng không chổ nào nói ngày thứ I là ngày Thánh. Ông phải nhớ rằng các người đàn bà đó đang đi tìm Chúa trong MỒ. KHÔNG CÓ CHÚA. Chúa không phải là một xác chết của ngày hôm qua.
NGÀY THỨ 7. Nhưng nơi nào có sự hiện diện của Chúa là nơi THÁNH. Kinh thánh chép: “Nội chiều ngày đó, LÀ NGÀY THỨ NHẤT TRONG TUẦN LỄ, nơi các môn đồ ở, CHÚA JÊSUS ĐẾN ĐỨNG CHÍNH GIỮA HỌ MÀ PHÁN RẰNG: BÌNH AN CHO CÁC NGƯƠI” (Giăng 20:19). Giá trị là CÓ SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA. Ông DQT. còn dùng chữ ‘Môn Đồ họp lại để ĂN MỪNG CHÚA PHỤC SINH’ như châm biếm những người ủng hộ ngày thứ I là ngày các môn đồ họp lại để ĂN MỪNG. Nhưng rõ ràng Kinh thánh không ghi chữ Ăn Mừng vì lúc này các môn đồ ĐANG SỢ, đó là tâm trạng của các môn đồ Kinh Thánh ghi rõ ai cũng biết. Nhưng đó là tâm trạng của họ trước khi Chúa hiện đến. Ông DQT dừng lại ở đó để nói rằng ngày thứ nhất không phải là ngày thánh. Ông nói “Họ họp nhau không phải để thờ phượng, nếu họ họp lại để thờ phượng thì họ vào nhà hội...” Nhưng Chúng ta nên nhớ rằng, KHI CHÚA JÊSUS HIỆN RA THÌ CÁC MÔN ĐỒ ĐẦY SỰ VUI MỪNG. Khi Ma-ri thấy Chúa sống vào sáng ngày thứ I thì “…ĐẾN GẦN, ÔM CHÂN NGÀI VÀ THỜ LẠY NGÀI” (Mat.28:9). Khi Chúa hiện ra với các môn đồ lần đầu tiên thì Kinh Thánh chép: “ KHI MÔN ĐỒ THẤY NGÀI THÌ THỜ LẠY NGÀI. Như vậy rõ ràng, khi Chúa Phục Sinh hiện đến thì các Môn Đồ ĐẦY VUI MỪNG VÀ THỜ LẠY NGÀI. Thờ phượng Chúa trong NGÀY THỨ NHẤT, thờ phượng Chúa là ngày Thánh, vì Chúa Jêsus là CHÚA CỦA NGÀY SA BÁT.
b - Ông DQT cho rằng Phao lô nói với HT Cô-rinh-tô CỨ NGÀY ĐẦU TUẦN Không phải là ngày thờ phượng nhưng là ngày bắt đầu dành tiền dâng hiến. (trang 165 LT ngày SB)
Chúng ta xem lại mạch văn “CỨ NGÀY ĐẦU TUẦN LỄ, Mỗi người trong anh em khá tùy sức mình chắc lót được bao nhiều thì để dành tại nhà mình, HẦU CHO KHỎI ĐỢI TÔI ĐẾN RỒI MỚI GÓP” (I Côr. 16:2). Mội bản dịch mới khác do nhóm phiên dịch thế giới. Bản dịch sát nhất với nguyên ngữ Hy-lạp “Vào ngày đầu tuần, mỗi anh chị em dành riêng ra một số tiền tùy khả năng. Làm như thế thì không cần phải đợi tôi đến rồi mới thu góp”. Điều này có ý nghĩ là CỨ NGÀY ĐẦU TUẦN LÀ DÂNG HIẾN, CHỨ KHÔNG ĐỢI PHAO-LÔ ĐẾN RỒI MỚI DÂNG HIẾN. Và đây không phải là cách làm chỉ của Hội Thánh Cô-rinh-tô mà là của tất cả các Hội Thánh miền Ga-li-lê. Tất nhiên ai cũng biết rằng, từ trước đến nay, ngay cả Cựu Ước sự dâng hiến đều thực hiện lúc HỘI THÁNH NHÓM LẠI.
c – Buổi nhóm ngày thứ I tại Hội thánh Trô-ách ông Dương Quốc Tùng nói rằng: “Mục đích của buổi nhóm này không phải để ĂN MỪNG SỰ SỐNG LẠI CỦA CHÚA JÊSUS như một số người thường nói...Đây là buổi nhóm họp để chia tay???.
- Qua những lời trên chứng tỏ Ông DQT. luôn bài xích về sự VUI MỪNG VỀ MỘT CHÚA PHỤC SINH. Phải biết rằng đời sống cơ Đốc Nhân lúc nào cũng phải VUI MỪNG, VUI MỪNG MÃI MÃI (IITê 5:16,17). Vì sự hiện diện thường trú của Chúa Phục Sinh trong đời sống của Cơ Đốc Nhân.
- Buổi nhóm này là buổi nhóm để THỜ PHƯỢNG CHÚA. Lẽ tất nhiên, Phao-lô muốn ở lại với Hội Thánh Trô-ách để nhóm với Hội Thánh trong ngày Chúa Nhật (ngày thứ I) rồi thứ 2 (ngày mai) ông sẽ ra đi. “Ngày thứ nhất trong tuần lễ, chúng ta đang nhóm lại để bẻ bánh; Phao-lô phải đi ngày mai, nên người nói chuyện, cứ GIẢNG luôn cho đến nữa đêm....GIẢNG LUẬN cho đến sáng”(Công vụ.20:7-12). Như vậy buổi nhóm thờ phượng Chúa có LỄ BẺ BÁNH, CÓ GIẢNG LUẬN, cũng có nghỉ một lúc để nói chuyện (thông công).
- Ông DQT còn nói rằng: Tối thứ 7 hay sáng Chúa Nhật? Ông lý luận rằng: “Buổi nhóm chưa chắc diễn ra vào sáng Chúa nhật .... một ngày bắt đầu từ ban đêm và ban ngày sau... như vậy, thực ra là vào tốt thứ 7, vì kinh thánh ghi: “có nhiều đèn trong phòng cao mà chúng ta đương nhóm lại” !? Như vậy, Ông DQT nên gạch bỏ chữ NGÀY THỨ NHẤT TRONG TUẦN LỄ trong Kinh Thánh, có lẽ ông ước rằng đừng có câu này thì dễ nói là ngày thứ 7 hơn. Dầu vậy, ông vẫn cứ nói khi ông trưng dẫn có nhiều đèn trên phòng cao...?! Phải nhớ là NGÀY thứ nhất, chứ không phải tối ngày thứ 7. Rồi gì nữa: cứ giảng luôn CHO ĐẾN NỮA ĐÊM. Thời gian từ ban ngày cho đến ban đêm, cũng có nghỉ thông công (nói chuyện). Chính vì vậy mới có đèn nhiều để soi sáng vào tối chúa nhật chứ. Như vậy ông DQT thần tượng ngày thứ 7 cho nên muốn SỬA KINH THÁNH.
Chúng ta cũng hiểu rằng: có những người không bao giờ tin sự yên nghỉ trong Chúa Phục Sinh cho nên họ dùng những lý luận để bác bỏ. Họ sẽ không bao giờ ĂN NĂN, đúng như Hêb. 4:3-7 Chúa phán: “Chúng nó sẽ chẳng hề vào sự yên nghỉ Ta!...” “.. Vì những kẻ nghe Tin lành ấy trước nhất đã không vào đó, BỞI CHẲNG TIN.”
Chúng ta hãy cầu nguyện và nhờ Đức Thánh Linh giảng giải cho người Cơ Đốc Phục Lâm hiểu rõ ý nghĩa Sabát trong Chúa Jêsus phục sinh để họ bước vào trong quyền năng của Đức Thánh Linh. Không còn cậy việc làm của xác thịt, họ nhận được sự cứu rỗi trọn vẹn trong Chúa Jêsus, để họ tôn vinh xứng đáng cho danh Đức Chúa Jêsus. AMEN.
co_doc_phuc_lam.pdf | |
File Size: | 254 kb |
File Type: |