5 quyển của bộ Ngũ Kinh
The Pentateuch
The Pentateuch
Ngũ Kinh và Lịch Sử - Dick Woodward
|
|
SÁNG THẾ KÝ / GENESIS
Tuổi Của Trái Đất • Seminar #1 • Dr. Kent Hovind
tuoi_cua_trai_dat_vn.docx | |
File Size: | 54 kb |
File Type: | docx |
Khu Vườn E-đen • Seminar #2 • Dr. Kent Hovind
khu_vuon_eden_vn.docx | |
File Size: | 43 kb |
File Type: | docx |
Những Trang Web Khác Bằng tiếng Việt nói về Thuyết khoa Học Sáng Tạo
Other Web Sites in Vietnamese with Creation Science
Other Web Sites in Vietnamese with Creation Science
Sáng thế ký\ Genesis. La Genèse.
Tên sách thứ nhứt nầy trong Cựu Ước bằng tiếng Hy-lạp là Genesis tức "gốc tích" thế gian, từ bản Septante, nhưng người Hê-bơ-rơ gọi bằng hai chữ đặt ở đầu sách là Bereshith, tức "ban đầu." Sáng thế ký là một sách rất quan trọng, như Tấn sĩ Bullinger nói: "Sáng thế ký có hột giống của cả Kinh Thánh, và rất cần thiết để giúp chúng ta hiểu mỗi phần trong Kinh Thánh. Sáng thế ký là nền tảng để gây dựng sự khải thị của Chúa. Chẳng những là nền tảng của mỗi lẽ thật, song cùng nhập vào và dự phần trong những sự soi dẫn sau; thật là sợi ngang và sợi dọc của Kinh Thánh."
I. Chứng cớ là thật.--
A. Mặt trái. Người công kích Sáng thế ký thường dựa vào nguyên lý chung mà nói rằng: (1) Chẳng có dân tộc nào có thể biết ai thật là người sáng lập. Xin đáp: lịch sử Y-sơ-ra-ên là độc nhứt không thể lấy lịch sử dân tộc khác mà so sánh được, vì Y-sơ-ra-ên là tuyển dân của Đức Chúa Trời. (2) Cả cuộc đời Áp-ra-ham được ghi lại, dường như ông luôn bị thử thách và phải chờ đợi mãi, mà trung tâm của sự thử rèn đó là lời Đức Chúa Trới hứa sẽ ban một con trai cho ông làm kẻ kế tự. Theo tâm lý học, một người không thể chịu nổi sự thử thách như vậy. Xin đáp: trong lịch sử tôn giáo Chúa ta thấy nhiều người cũng chịu thử thách dài lâu như vậy như Phao-lô, Luther, v.v.. (3) Có một khoảng lâu giữa những biến động xảy ra và thời được ghi chép trong Sáng thế ký, nên có lẽ chỉ là chuyện hoang đường hoặc ngụ ngôn được coi là thật. Xin đáp: Giữa các dân tộc, trải qua mấy ngàn năm, truyện hoang đường hoặc ngụ ngôn, như về người Hy-lạp và La-mã xưa, cũng không vì đó mà được công nhận là sự thật. Vả lại, các đấng tiên tri nhận biết những lời chép trong Sáng thế ký như về Nước lụt hoặc sự hũy phá hai thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ là có thật (Sáng 19:1- so Am 4:11; Ês 1:9; 3:9; Ôs 11:8); về Áp-ra-ham là một vĩ nhân (Ês 29:22; 41:8; 51:1; Mi 7:20; Giê 33:26; Êxê 33:24, v.v.); về Y-sác, (Am 7:9, 16; Giê 33:26); về Gia-cốp (Ôs 12:3; Am 9:8; Giê 33:26; Am 5:6, 15). Các tiên tri đó không nghi ngờ gì, song coi những người và biến động đó là thật. (4) Khi Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an, nơi đây có những nơi cao để thờ tà thần, và vì muốn mượn cớ dùng nơi đó để thờ Chân thần thì Y-sơ-ra-ên bày vẽ ra lịch sử để tỏ ra các tổ tiên mình khi xưa đã thờ Ngài trong các nơi cao đó trước, như vậy mình cũng có phép làm theo. Xin đáp: Nếu thật vậy, làm thế nào cắt nghĩa lịch sử về Giô-sép ở xứ Ai-cập? Vả lại, trong Sáng thế ký chưa chép về sự thờ Chúa trong một nơi nào mãi, song chép về Ngài hiện đến cùng các tổ phụ thế nào, và các tổ phụ dựng bàn thờ cho Ngài trong một vài nơi như Bê-tên, Bê-e-Sê-ba, v.v.. Số các nơi lập bàn thờ đó ít ỏi so với các nơi cao thờ tà thần lúc Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an là dường nào! Bởi thế, các lời công kích trên lại càng bày tỏ rõ ràng những truyện chép trong Sáng thế ký không phải là bịa đặt ra bởi người ta bèn là những sự thật đã xảy ra.
B. Mặt phải.-- (1) Ý nghĩa đời sống cá nhân của mỗi tổ phụ chép trong Sáng thế ký liên quan tới sự mở mang lịch sử nước Đức Chúa Trời chép sau trong Kinh Thánh. Những đoạn mô tả cách ăn ở, sinh hoạt của họ, những lời tỏ ra họ chưa định cư mãi mãi một nơi nào, đều làm chứng Sáng thế ký là thật. Các sách tiên tri, cả Tân Ước, và chính Chúa Jêsus cũng tự nhiên coi như thế. (2) Môi-se là người Chúa nhờ lập Luật pháp chắc không cần phải bịa đặt ra những truyện chép trong Sáng thế ký vì điều đó chỉ làm hại danh dự của mình mà thôi. Chính Môi-se xưng nhận rằng công việc mình đang làm là nhờ những lời Chúa đã hứa với các tổ phụ, vì vậy Môi-se có thể được dân sự chú ý và tin cậy (Xuất 2:24; 3:6, 13; 4:5; 6:3-8; 15:2; 32:13; 33:1). (3) Trong Sáng thế ký không có câu nào xen vào có thể nói là thuộc đời sau chép. (4) Những lần chép về Đức Chúa Trời hiện ra và về sự thờ phượng Ngài suốt từ Sáng thế ký đến Xuất Ê-díp-tô ký, tỏ rõ càng về sau có sự mở mang hơn. (5) Ngày nay các nhà khảo cổ đã minh chứng Sáng thế ký đoạn 14 chép mọi điều thuộc về Kết-rô-Lao-me và Mên-chi-xê-đéc, với các tên, chính trị và niên hiệu, đều thuận hiệp với thời đó. Đoạn 42 chép tình hình tôn giáo, và lịch sử Giô-sép tại xứ Ai-cập tỏ ra Môi-se nhờ những sự từng biết của mình mà chép rất đúng. (6 Trong Sáng thế ký không thấy có chép gì phản đối hay trái với những sự biết chắc chắn của các khoa: niên biểu học, sử học, khảo cổ học, vật lý học, địa dư học, hay ngôn ngữ học. Khi các nhà khoa học biết rằng mục đích của sách Sáng thế ký chỉ chép về tôn giáo thì lấy làm lạ. Hai nhà khoa học rất trứ danh Reinke và Von Barr, xác chứng rằng Môi-se chép về cuộc tạo thành vũ trụ trong Sáng thế ký tỏ ra mình là một nhà khoa học thông sáng, trổi hơn hết. Ngày nay địa chất học tìm được rất nhiều chứng cứ tỏ ra truyện Nước lụt chép trong Sáng thế ký là đúng sự thật. (7) Ngôn ngữ học cũng làm chứng Sáng thế ký đoạn 10 chép đúng về Ba-bên và Ni-ni-ve, và người ta từ Ba-bên đến A-sy-ri mà ở. Về chiếc tàu Nô-ê, một người Hòa-lan trong thế kỷ thứ XVII đã đóng một tàu theo kích thước ghi chép trong Sáng 6:15 và thấy là rất thuận. (8) Khi tra xét hai truyện chép về cuộc Sáng tạo và Nước lụt trong Sáng thế ký và chuyện hoang đường của Ba-by-lôn về hai việc đó, thì thấy chuyện chép trong Sáng thế ký bày tỏ luân lý và tâm tính của Chân thần độc nhất; trái lại, những chuyện hoang đường của Ba-by-lôn thì đầy dẫy những sự dị đoan và tà thần, làm mất vẻ đạo đức. Những truyện hoang đường của các dân tộc khác về cuộc Sáng tạo và Nước lụt, cho thấy có khi lấy từ truyện người Do-thái như đã chép trong Sáng thế ký. Thật ra, cứ so Sáng thế ký với các sách thái cổ khác, thì bắt buộc phải công nhận Sáng thế ký là thật và chính Đức Chúa Trời soi dẫn tác giả chép ra.
II. Căn nguyên và tác giả.--
Sáng thế ký đứng đầu Kinh Thánh có liên quan với các sách theo sau, vì có hột giống tiên tri làm nền tảng của mọi lời tiên tri chép suốt cả Kinh Thánh; lời tiên tri đến hết sách Khải Huyền được ứng nghiệm trọn vẹn trong cây sự sống được hoàn lại, nước sự sống, và sự thông công với Đức Chúa Trời trong thế gian mới đã được giải cứu khỏi sự rủa sả. Astruc, một bác sĩ người Bỉ, xuất bản sách 1753 S.C.) nói rằng theo lối dùng các danh Đức Chúa Trời khác nhau trong Sáng thế ký, nhứt là Ê-lô-him và Giê-hô-va, thì dường như vốn có 12 bản viết hoặc ký ức mà Môi-se đã dựa vào đó để chép. Từ năm đó trở đi, nhiều học sĩ đã hết sức tìm hiểu về vấn đề nầy song không được kết quả gì chắc chắn. Những danh Đức Chúa Trời trong Sáng thế ký là El, lối viết tắt Ê-lô-him; Elion "Chí cao" (Sáng chỉ dùng trong 14:18; El Elion cũng dùng trong Thi-thiên với Ê-lô-him và Giê-hô-va). Ê-lô-him chỉ về số nhiều để chỉ sự trổi hơn và oai nghiêm; Ê-lô-him là danh gồm lại trong chính Ngài những thuộc tánh mà người ngoại đạo đặt cho các tà thần riêng. Giê-hô-va là danh chỉ về Đức Chúa Trời Độc nhứt, là Đấng lập giao ước với dân Ngài, nên thường dùng trong các đoạn có liên quan với giao ước đó. Có lẽ Môi-se, nhờ Đức Chúa Trời soi dẫn, có dùng đến những bản viết hoặc ký ức đó, nhứt là những biểu kê về Gia phổ. Song độc giả phải công nhận rằng Sáng thế ký là một sách có mục đích và đại ý liên lạc chặt chẽ, hiệp nhất với nhau suốt cả sách. Cũng phải công nhận lối dùng danh Đức Chúa Trời của tác giả dầu không phải một cách quyết đoán, song vẫn rất thuận hiệp với tài liệu và rất chính xác nữa.
Có nhiều chứng cớ tỏ ra Môi-se chắc chắn là tác giả của sách Sáng thế ký. Khi xét sách Sáng thế ký ta thấy các sự việc xảy ra trong các đời được ghi lại một cách tỉ mỉ rõ ràng, và được lưu truyền từ đời thái cổ. Có học sĩ nói vì có chép đến "Si-lô" trong Sáng 49:10, nên chắc đó là chứng cớ Sáng thế ký chép sau thời lập Đền tạm tại Si-lô. Song bản quốc văn tỏ rõ "Shioh" đó chỉ về Đấng Mê-si, chứ không phải chỉ về việc Đền tạm dời đến Si-lô. Học sĩ đó cũng lấy Sáng 12:6; 13:7; 22:2; 36:31; 13:18; 23:2; 14:14 mà cho rằng: dường như lúc chép Sáng thế ký không có thổ dân Ca-na-an trong xứ đó nữa, v.v, vì những câu đó thật thuộc thời sau đời Môi-se. Nhưng xét rõ thì biết ngay trong đời Áp-ra-ham, dân Ca-na-an còn trong xứ mình, chưa bị đuổi đi. Theo Sáng 10:6, 15; 9:25 thì Áp-ra-ham đến xứ đó thấy người Ca-na-an còn ở. Còn mấy câu khác nữa, song không có gì để tỏ ra sách Sáng thế ký chép sau đời Môi-se. Như đã nói trên, những sự việc được ghi lại trong Sáng thế ký chứng tỏ rằng tác giả nhờ sự từng trải và sự từng biết mà chép ra, điều đó cho thấy chỉ có Môi-se mới có thể chép như vậy. Như giám mục Brown viết: "Rất đáng nghi ngờ, nếu tác giả sách Sáng thế ký là người đồng thời vớISa lại có thể chép lịch sử các tổ phụ giống mình cách trung tín, chơn thật, và đơn sơ, đúng về những tiểu tiết như trong Sáng thế ký gọi là sách thứ nhứt của Môi-se."
III.Tóm tắt.--
Sáng thế ký có phải chép theo những lời truyền khẩu, như thi sĩ Milton trong sách "Le Paradis perdu" mô tả thiên sứ Gáp-ri-ên thuật cho A-đam những điều lạ lùng về công cuộc sáng tạo không? Ấy chỉ là giả thuyết; nhưng chắc Chúa có dạy cho A-đam biết những sự đó, và thủy tổ nói với Mê-tu-sê-la, rồi truyền tụng đến đời Nô-ê, Áp-ra-ham, Y-sác, Giô-sép, Môi-se. Bất cứ là cách nào, Công 7:37, 38 chép rõ căn nguyên và tác giả của Sáng thế ký: tức Môi-se nhận từ Đức Chúa Trời, và ra đời tại núi Si-na-i! Tiến sĩ A-đam Clark viết: "Truyện chép trong Sáng thế ký là đơn sơ, chân thật, thống nhất với nhau, ghi đúng những niên hiệu, các tiểu sử được trình bày rõ ràng, đúng về những tiểu tiết, tinh sạch về đạo đức, và ý định tốt lành, đến nỗi bày tỏ cách đầy đủ căn nguyên sách nầy không phải từ thế gian mà có được!"
III. Đại ý và mục đích.-- Sách Sáng thế ký (kèm theo với những đoạn đầu sách Xuất Ai-cập) mô tả những bước dẫn đến sự thiết lập Thần quyền. Ấy là một phần chương trình của trước giả để trình bày cho ta biết sự việc Đức Chúa Trời sửa soạn thế gian cách nào, hầu để tỏ ra ý nghĩa của sự kêu gọi Áp-ra-ham và tánh chất của Thần quyền trên người Do-thái. Trước giả mở đầu với cuộc sáng tạo thế gian, vì Đức Chúa Trời đã dựng nên thế gian cũng là một với việc Đức Chúa Trời tỏ mình Ngài cho các tổ phụ. Như vậy, sách Sáng thế ký có tinh cách đặc biệt và phổ thông, nói về Đức Chúa Trời là Chúa của cả loài người. Song như lời tiểu dẫn cho lịch sử dân Do-thái, sách để quyền lợi chung phụ thuộc vào quyền lợi của một quốc gia. Có năm người làm cột trụ, hay nói cho đúng hơn là có năm cái nền, mà trên các nền đó công trình kiến thiết được đặt lên: A-đam, Nô-ê, Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
I. A-đam.-- Cuộc sáng tạo thế gian, và buổi sớm nhứt về lịch sử loài người (1:1--3:1-). Dầu vậy, thời gian này chưa có sự phân chia các chi họ loài người.
II. Nô-ê.-- Lịch sử của dòng dõi A-đam đến sự chết của Nô-ê (4:1--9:1-). Tại đây ta có: (1) Dòng của Ca-in tẻ tách ra. (2) Lịch sử theo dòng dõi Sết, mà các dòng dõi người được chép trong gia-phổ, không hề đứt quãng mãi cho đến đời Nô-ê. (3) lịch sử của chính Nô-ê (6:1--9) tiếp nối cho đến khi người chết.
III. Áp-ra-ham.-- Dòng dõi của Nô-ê cho đến khi Áp-ra-ham qua đời (10:1--25:18). Tại đây, ta có:
(1) Dân cư ở khắp thế gian bởi dòng dõi ba con trai của Nô-ê sinh ra (11:1-9). (2) Dòng dõi Sem tiếp nối (11:10-32) cho đến tận Tha-rê và Áp-ra-ham. Tại đây, biểu kê về gia phổ đứt quãng. (3) Áp-ra-ham, con của Tha-rê là người được ơn Chúa chọn (12:1--25:18).Vì Tha-rê có hai con trai khác nữa: Na-cô và Ha-ran (11:27), nên ở đây có thêm vào vài điều về hai chi họ đó. Có nói đến Lót (con trai của Ha-ran) di cư với Áp-ra-ham đến xứ Ca-na-an, cũng nói Lót là cha của Mô-áp và Am-môn (19:37, 38) là những dân tộc mà sau nầy có liên quan với dòng dõi Áp-ra-ham. Na-cô vẫn ở lại xứ Mê-sô-bô-ta-mi, dòng dõi của người có kể ra cách vắn tắt (22:20-24), la vì cớ Rê-be-ca là người sau này làm vợ Y-sác. Về con của Áp-ra-ham có những chi nhánh tẻ tách ra, trước nhứt là dòng dõi bởi Ích-ma-ên (21:9, v.v.), và kế đến các con của Kê-tu-ra, những điều chép về gia phổ của hai chi nhánh đó dường như chép chung với nhau (25:1-6 và 25:12-18). Đến cuối đời Áp-ra-ham, dòng chính của lịch sử Y-sơ-ra-ên phát xuất ra trong gia tộc Y-sác.
IV. Y-sác.-- Đời của Y-sác (25:19-35:29) là một đời ẩn dật và không có biến động nào. Song trong vòng các con của Y-sác có sự chia rẽ, cuối cùng để lại chỗ cho lịch sử về dòng dõi được lựa chọn. Cả đến khi gia đình của Na-cô có ở đó, như trong đoạn 29, ta cũng thấy những chi tiết đó dường như thêm vào sự cần thiết để chiếu sáng trên cuộc đời của Gia-cốp.
V. Gia-cốp.-- Lịch sử của Gia-cốp và Giô-sép (36:1). Tại đây, sau khi Y-sác qua đời, ta có:
(1) Dòng dõi Ê-sau (36:1-) sau đó trong sách không nói thêm nữa. (2) Lịch sử của các tổ phụ, cứ tiếp nối cho đến sự chết của Giô-sép (37:1--50:1-). Có thể thấy rõ một chương trình đặc biệt đã được chuẩn bị sẵn và mục đích chính chẳng bao giờ quên được: Sự liên lạc của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên là điều chiếm chỗ lớn nhứt trong trí tác giả. Lịch sử của dòng dõi được lựa chọn, là những con kế tự của lời hứa và kẻ giữ lời phán của Đức Chúa Trời, lịch sử đó cắt nghĩa sự quan hệ giữa Đức Chúa Trời va loài người. Bởi ánh sáng lịch sử đó, mọi sự khác cũng được sáng tỏ ra. Ta thấy trong lịch sử nầy những gia đình khác, ngoài dòng dõi của Gia-cốp, thì chỉ nói đến cách vắn tắt. Chắc chắn, ta có thể nói rằng suốt cả sách Sáng thế ký la một chương trình có hệ thống.
Như vậy, ta thấy Sáng thế ký là một lịch sử tôn giáo, bỏ qua những tiểu tiết không cần thiết về các dân tộc khác, để tập trung ý trên căn nguyên của dân tộc mà từ đó Đấng Cứu chuộc đã hứa sẽ ra. Bởi thế, Sáng thế ký chỉ chép biểu kê gia phổ các dân tộc, nhưng thuật rất kỹ về các tổ phụ tin kính thuộc gia phổ Đấng Cứu thế, vì điều đó còn quan trọng hơn việc chép lại về sự dấy lên và suy đồi của các đế quốc hùng mạnh. Sáng thế ký đã chọn những tiểu tiết của lịch sử các tổ phụ mà chép để làm thí dụ về các nguyên lý thuộc linh, và bày tỏ ra mục đích tốt lành của Đức Chúa Trời về sự cứu chuộc loài người.
IV. Phân tích.-- Xin gợi ý về ba lối phân tích sách nầy:
1. Sáng thế ký có thể chia làm ba phần lớn: (1) Lịch sử vũ trụ, bày tỏ sự liên quan của Đức Chúa Trời đối với vũ trụ, và đưa lịch sử loài người vào (1:1-2:3). (2) Phác họa về lịch sử loài người trước Áp-ra-ham, sự liên hệ giữa Đức Chúa Trời với loài người, và việc đưa lịch sử của tuyển dân vào (2:4-11:26); (3) Lịch sử dân sự của giao ước cho đến thời xuống Ai-cập (11:27-50:1-). Phần lớn thứ hai có bao gồm sự dựng nên cả loài người và địa vị như vốn có (2:4-25), sự sa ngã (3:1-), sự tiến triển về tội lỗi (4:1-15), nòi giống thế gian (4:16-24), dòng giống tin kính (4:25-5:32), thêm sự gian ác (6:1-8), nước lụt (6:9-9:17), lập lại dân cư ở khắp thế gian (9:18-10:32), sự xây cất tháp Ba-bên (11:1-9), và dòng giống Sem lúc mới nảy mầm (11:10-26). Phần lớn thứ ba đó gồm lại lịch sử ban đầu của Áp-ra-ham, sự kêu gọi và sự trú ngụ tại Ca-na-an (11:27-25:10), đời sống của Y-sác từ sự chết của cha, cho đến khi khởi hành xuống xứ Mê-sô-bô-ta-mi (25:11-27:40), còn đời sống của Gia-cốp từ khi qua xứ Mê-sô-bô-ta-mi cho đến khi Y-sác qua đời (27:41-35:29), dòng dõi của Ê-sau (36:1-) lịch sử của Giô-sép đến khi người bị bán xuống xứ Ai-cập (37:1-), tội lỗi và sự xấu hổ của Do-thái (38:1-), Giô-sép ở trong xứ Ai-cập (39:1--45:1-), Gia-cốp và cả nhà với Giô-sép tại xứ Ai-cập (46:1--49:1-), sự chết của Gia-cốp và Giô-sép (50:1-).
2. Đây là lối phân tích thứ hai: Trước giả Sáng thế ký, sau lời tiểu dẫn (1:1--2:3), đã chép gồm cả truyện trong 10 phần liên tiếp nhau, mỗi phần bắt đầu với câu: "Nầy là dòng dõi của..." Xem 2:4-4:26; 5:1-6:8; 6:9-9:29; 10:1-11:9; 11:10-26; 11:27-25:11; 25:12-18; 25:19-35:29; 36:1-37:1; 37:2-50:26.
3. Đây là lối phân tích thứ ba: "Ban đầu" là chìa khóa của 9 phần lớn.
A. Sáng thế ký là một lịch sử thượng cổ gồm lại một khoảng trên 2000 năm (1:1--11:9). (1) Ban đầu của thế gian vật chất (1:1-25). a) Câu 1:1 nói về sự tạo thành như vốn có. b) Ês 45:18 nói Đức Chúa Trời không dựng nên thế gian như thấy trong câu 1:2. c) Xem IIPhi 3:5, 6. d) Sáu ngày chép là sáu ngày lập lại. (2) Ban đầu của loài người (1:26-2:1-) a) Người được dựng nên không phải bởi sự tiến hóa. b) Người được đặt vào trong vườn Ê-đen. Nghĩa tên nầy theo tiếng Accadian (A-cát, 10:10) là hoang vu, vì Ê-đen vốn như thế. (3) Ban đầu của tội lỗi loài người (3:1-7). a) Đổi sai lời Chúa, người nữ bớt và thêm vào lời Ngài. b) Người nữ "thấy, " "hái ăn, " và "trao cho." (4) Ban đầu những Khải thị về sự cứu chuộc (3:8-24). a) Lời hứa thứ nhứt về Đấng Cứu chuộc, là khởi đầu những sự khải thị sau. b) Lần thứ hai chép về các thần Chê-ru-bin (Xuất 25:20) thì không thấy có gươm vì có huyết. (5) Ban đầu của gia đình loài người (4:1-15). a) Gia đình thứ nhứt. b) Sự cãi lẫy thứ nhứt trong gia đình là về tôn giáo. c) Nên chú ý 4:7 chép "tội lỗi rình đợi trước cửa" như một con thú dữ. (6) Ban đầu của sự văn minh vô đạo (4:16-9:1-.) a) Thành thứ nhứt được xây dựng, và sự sống nơi thành thị do từ một kẻ giết người. b) Nên chú ý 4:23 và 26.
(7) Ban đầu của các dân tộc trên thế gian (10:1-).
a) Phần nầy rất quan trọng.
b) Tại đây, ta có nguồn gốc của các dân tộc.
(8) Ban đầu của sự lộn xộn tiếng nói (11:1-).
a) Lần thứ nhứt loài người thử được hiệp một ngoài Đức Chúa Trời. b) Sự thử tại tháp Ba-bên để cho loài người hiệp một sẽ diễn lại bởi Antichrist. Xem Khải 17:1-.
B. Lịch sử các Tổ phụ trên 300 năm.
(9) Ban đầu của nòi giống Hê-bơ-rơ (12:1--50:1-).
a) Phần nầy chép tiểu sử các tổ phụ.
b) Tiểu sử của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
V. Sứ mạng của sách.--
(1) Ấy là loài người trong mọi sự thất bại có thể nhờ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
(2) Người cần phải nhận biết sự yếu đuối và sự thiếu thốn của chính mình trước khi tình nguyện chọn Đức Chúa Trời.
(3) Trong Sáng thế ký ta thấy con người thất bại:
a) Ở giữa một nơi toàn hảo (Ê-đen).
b) Dưới sự cai trị của lương tâm (từ sự Sa ngã đến Nước lụt).
c) Dưới sự cai trị của các Tổ phụ (từ Nô-ê đến Giô-sép). Chú ý: sách bắt đầu chép Đức Chúa Trời và cuối cùng chép về một quan tài.
(4) Trong sự thất bại, con người có thể nhờ ân điển và quyền năng của Chúa. "Nơi nào tội lỗi đã gia thêm thì ân điển lại càng dự dật hơn nữa" (Rô 5:20).
Tiến sĩ Scofield chú thích về Sáng thế ký như sau nầy:
Sáng thế ký là một sách của những sự ban đầu. Sách không những chỉ thuật sự khởi đầu của trời và đất, cây cỏ, thú vật và loài người, song cũng chép về những sự thiết lập và những sự quan hệ của loài người. Về hình bóng, sách nói về sự sanh lại, trời đất mới, tại đó trước kia hết thảy đều là vô hình và đổ nát. Với Sáng thế ký, bắt đầu trình bày một cách tuần tự sự khải thị của chính Đức Chúa Trời được hoàn thành ở trong Đấng Christ. Có ba tên của Đức Chúa Trời: Ê-lô-him, Giê-hô-va, và Adonai, và năm tên phức hợp quan trọng nhứt được ghi chép trong Sáng thế ký.
Vấn đề tội lỗi có liên quan đến địa vị của loài người ở trên đất, sự liên hệ của con người với Đức Chúa Trời, và sự giải quyết vấn đề đó, bày tỏ phần cốt yếu ở đây. Về tám giao ước lớn làm điều kiện cho sự sống của loài người và sự cứu chuộc của Chúa, trong đó bốn giao ước về vườn Ê-đen, với A-đam, Nô-ê và Áp-ra-ham đều ở trong sách nầy; và đó là những giao ước nền tảng, còn bốn giao ước khác với Môi-se, Pha-lê-tin, Đa-vít và các Giao ước Mới, được thuật lại cốt để thêm chi tiết.
Sáng thế ký cũng được đưa vào trong sự thiết lập Tân Ước, trong đó trích lục trên 60 lần trong 17 sách. Bởi đó, theo ý sâu nhiệm, cội rễ của mọi sự khải thị về sau, đã được đâm rất sâu trong Sáng thế ký, ai muốn thật hiểu thì phải khởi sự từ sách nầy.
Sự soi dẫn để viết sách Sáng thế ký có tính cách như là một khải thị của Đức Chúa Trời, có lời chứng là thật của lịch sử và của Đấng Christ (Mat 19:4-6; 24:37-39; Mác 10:4-9; Lu 11:49-51; 17:26-29, 32; Giăng 1:51; 7:21-23; 8:44, 56).
Sáng thế ký chia làm năm phần chính: (I) Cuộc tạo thành (1:1-2:25). (II) Sự sa ngã và sự cứu chuộc (3:1-4:7). (III) Các dòng dõi khác nhau, Ca-in và Sết cho đến Nước lụt (4:8-7:24). (IV) Nước lụt cho đến Ba-bên (8:1-11:9). (V) Từ sự kêu gọi Áp-ra-ham cho đến sự chết của Giô-sép (11:10-50:26).
Sáng 23:4.-- So Sáng 33:19; 50:13; Giô 24:32; Công 7:15, 16. Người ta tưởng rằng có sự khác nhau trong các câu nầy. Song điều đó sẽ không còn nữa, nếu ta giả định cách tự nhiên rằng: trong khoảng thời gian 80 năm trước, lúc Áp-ra-ham mua mộ địa cho gia đình trên đất của dân họ Hếch (Sáng 23:4, 20) và lúc Gia-cốp mua đất đó (Sáng 33:19), thì "con cháu Hê-mô" (Công 7:15, 16) đã lấy lại đồng ruộng, trong đó có hang đá Mặc-bê-la làm mộ địa. Nếu quyết định rằng đó là sản nghiệp xưa của tổ phụ để lại, thì Gia-cốp mua đồng ruộng đó lại lần nữa. Hếch là tổ tông chung của con cháu Hêmô.
Sáng 46:26.So với câu 27. Người ta tưởng là có sự đối nghịch nhau. "Các người đến xứ Ai-cập với Gia-cốp" là 66 người (câu 26). "Các người thuộc về nhà Gia-cốp đi đến Ê-díp-tô" (câu 27), tức là hết cả chi họ Gia-cốp là 70 người, tức là gồm 66 người đi cùng Gia-cốp cộng với Giô-sép và hai con người, đã ở trong Ai-cập, là 69 người, với chính Gia-cốp là 70 người. So Công 7:14 ở đó gồm lại cả vợ các con Gia-cốp.
Tên sách thứ nhứt nầy trong Cựu Ước bằng tiếng Hy-lạp là Genesis tức "gốc tích" thế gian, từ bản Septante, nhưng người Hê-bơ-rơ gọi bằng hai chữ đặt ở đầu sách là Bereshith, tức "ban đầu." Sáng thế ký là một sách rất quan trọng, như Tấn sĩ Bullinger nói: "Sáng thế ký có hột giống của cả Kinh Thánh, và rất cần thiết để giúp chúng ta hiểu mỗi phần trong Kinh Thánh. Sáng thế ký là nền tảng để gây dựng sự khải thị của Chúa. Chẳng những là nền tảng của mỗi lẽ thật, song cùng nhập vào và dự phần trong những sự soi dẫn sau; thật là sợi ngang và sợi dọc của Kinh Thánh."
I. Chứng cớ là thật.--
A. Mặt trái. Người công kích Sáng thế ký thường dựa vào nguyên lý chung mà nói rằng: (1) Chẳng có dân tộc nào có thể biết ai thật là người sáng lập. Xin đáp: lịch sử Y-sơ-ra-ên là độc nhứt không thể lấy lịch sử dân tộc khác mà so sánh được, vì Y-sơ-ra-ên là tuyển dân của Đức Chúa Trời. (2) Cả cuộc đời Áp-ra-ham được ghi lại, dường như ông luôn bị thử thách và phải chờ đợi mãi, mà trung tâm của sự thử rèn đó là lời Đức Chúa Trới hứa sẽ ban một con trai cho ông làm kẻ kế tự. Theo tâm lý học, một người không thể chịu nổi sự thử thách như vậy. Xin đáp: trong lịch sử tôn giáo Chúa ta thấy nhiều người cũng chịu thử thách dài lâu như vậy như Phao-lô, Luther, v.v.. (3) Có một khoảng lâu giữa những biến động xảy ra và thời được ghi chép trong Sáng thế ký, nên có lẽ chỉ là chuyện hoang đường hoặc ngụ ngôn được coi là thật. Xin đáp: Giữa các dân tộc, trải qua mấy ngàn năm, truyện hoang đường hoặc ngụ ngôn, như về người Hy-lạp và La-mã xưa, cũng không vì đó mà được công nhận là sự thật. Vả lại, các đấng tiên tri nhận biết những lời chép trong Sáng thế ký như về Nước lụt hoặc sự hũy phá hai thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ là có thật (Sáng 19:1- so Am 4:11; Ês 1:9; 3:9; Ôs 11:8); về Áp-ra-ham là một vĩ nhân (Ês 29:22; 41:8; 51:1; Mi 7:20; Giê 33:26; Êxê 33:24, v.v.); về Y-sác, (Am 7:9, 16; Giê 33:26); về Gia-cốp (Ôs 12:3; Am 9:8; Giê 33:26; Am 5:6, 15). Các tiên tri đó không nghi ngờ gì, song coi những người và biến động đó là thật. (4) Khi Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an, nơi đây có những nơi cao để thờ tà thần, và vì muốn mượn cớ dùng nơi đó để thờ Chân thần thì Y-sơ-ra-ên bày vẽ ra lịch sử để tỏ ra các tổ tiên mình khi xưa đã thờ Ngài trong các nơi cao đó trước, như vậy mình cũng có phép làm theo. Xin đáp: Nếu thật vậy, làm thế nào cắt nghĩa lịch sử về Giô-sép ở xứ Ai-cập? Vả lại, trong Sáng thế ký chưa chép về sự thờ Chúa trong một nơi nào mãi, song chép về Ngài hiện đến cùng các tổ phụ thế nào, và các tổ phụ dựng bàn thờ cho Ngài trong một vài nơi như Bê-tên, Bê-e-Sê-ba, v.v.. Số các nơi lập bàn thờ đó ít ỏi so với các nơi cao thờ tà thần lúc Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an là dường nào! Bởi thế, các lời công kích trên lại càng bày tỏ rõ ràng những truyện chép trong Sáng thế ký không phải là bịa đặt ra bởi người ta bèn là những sự thật đã xảy ra.
B. Mặt phải.-- (1) Ý nghĩa đời sống cá nhân của mỗi tổ phụ chép trong Sáng thế ký liên quan tới sự mở mang lịch sử nước Đức Chúa Trời chép sau trong Kinh Thánh. Những đoạn mô tả cách ăn ở, sinh hoạt của họ, những lời tỏ ra họ chưa định cư mãi mãi một nơi nào, đều làm chứng Sáng thế ký là thật. Các sách tiên tri, cả Tân Ước, và chính Chúa Jêsus cũng tự nhiên coi như thế. (2) Môi-se là người Chúa nhờ lập Luật pháp chắc không cần phải bịa đặt ra những truyện chép trong Sáng thế ký vì điều đó chỉ làm hại danh dự của mình mà thôi. Chính Môi-se xưng nhận rằng công việc mình đang làm là nhờ những lời Chúa đã hứa với các tổ phụ, vì vậy Môi-se có thể được dân sự chú ý và tin cậy (Xuất 2:24; 3:6, 13; 4:5; 6:3-8; 15:2; 32:13; 33:1). (3) Trong Sáng thế ký không có câu nào xen vào có thể nói là thuộc đời sau chép. (4) Những lần chép về Đức Chúa Trời hiện ra và về sự thờ phượng Ngài suốt từ Sáng thế ký đến Xuất Ê-díp-tô ký, tỏ rõ càng về sau có sự mở mang hơn. (5) Ngày nay các nhà khảo cổ đã minh chứng Sáng thế ký đoạn 14 chép mọi điều thuộc về Kết-rô-Lao-me và Mên-chi-xê-đéc, với các tên, chính trị và niên hiệu, đều thuận hiệp với thời đó. Đoạn 42 chép tình hình tôn giáo, và lịch sử Giô-sép tại xứ Ai-cập tỏ ra Môi-se nhờ những sự từng biết của mình mà chép rất đúng. (6 Trong Sáng thế ký không thấy có chép gì phản đối hay trái với những sự biết chắc chắn của các khoa: niên biểu học, sử học, khảo cổ học, vật lý học, địa dư học, hay ngôn ngữ học. Khi các nhà khoa học biết rằng mục đích của sách Sáng thế ký chỉ chép về tôn giáo thì lấy làm lạ. Hai nhà khoa học rất trứ danh Reinke và Von Barr, xác chứng rằng Môi-se chép về cuộc tạo thành vũ trụ trong Sáng thế ký tỏ ra mình là một nhà khoa học thông sáng, trổi hơn hết. Ngày nay địa chất học tìm được rất nhiều chứng cứ tỏ ra truyện Nước lụt chép trong Sáng thế ký là đúng sự thật. (7) Ngôn ngữ học cũng làm chứng Sáng thế ký đoạn 10 chép đúng về Ba-bên và Ni-ni-ve, và người ta từ Ba-bên đến A-sy-ri mà ở. Về chiếc tàu Nô-ê, một người Hòa-lan trong thế kỷ thứ XVII đã đóng một tàu theo kích thước ghi chép trong Sáng 6:15 và thấy là rất thuận. (8) Khi tra xét hai truyện chép về cuộc Sáng tạo và Nước lụt trong Sáng thế ký và chuyện hoang đường của Ba-by-lôn về hai việc đó, thì thấy chuyện chép trong Sáng thế ký bày tỏ luân lý và tâm tính của Chân thần độc nhất; trái lại, những chuyện hoang đường của Ba-by-lôn thì đầy dẫy những sự dị đoan và tà thần, làm mất vẻ đạo đức. Những truyện hoang đường của các dân tộc khác về cuộc Sáng tạo và Nước lụt, cho thấy có khi lấy từ truyện người Do-thái như đã chép trong Sáng thế ký. Thật ra, cứ so Sáng thế ký với các sách thái cổ khác, thì bắt buộc phải công nhận Sáng thế ký là thật và chính Đức Chúa Trời soi dẫn tác giả chép ra.
II. Căn nguyên và tác giả.--
Sáng thế ký đứng đầu Kinh Thánh có liên quan với các sách theo sau, vì có hột giống tiên tri làm nền tảng của mọi lời tiên tri chép suốt cả Kinh Thánh; lời tiên tri đến hết sách Khải Huyền được ứng nghiệm trọn vẹn trong cây sự sống được hoàn lại, nước sự sống, và sự thông công với Đức Chúa Trời trong thế gian mới đã được giải cứu khỏi sự rủa sả. Astruc, một bác sĩ người Bỉ, xuất bản sách 1753 S.C.) nói rằng theo lối dùng các danh Đức Chúa Trời khác nhau trong Sáng thế ký, nhứt là Ê-lô-him và Giê-hô-va, thì dường như vốn có 12 bản viết hoặc ký ức mà Môi-se đã dựa vào đó để chép. Từ năm đó trở đi, nhiều học sĩ đã hết sức tìm hiểu về vấn đề nầy song không được kết quả gì chắc chắn. Những danh Đức Chúa Trời trong Sáng thế ký là El, lối viết tắt Ê-lô-him; Elion "Chí cao" (Sáng chỉ dùng trong 14:18; El Elion cũng dùng trong Thi-thiên với Ê-lô-him và Giê-hô-va). Ê-lô-him chỉ về số nhiều để chỉ sự trổi hơn và oai nghiêm; Ê-lô-him là danh gồm lại trong chính Ngài những thuộc tánh mà người ngoại đạo đặt cho các tà thần riêng. Giê-hô-va là danh chỉ về Đức Chúa Trời Độc nhứt, là Đấng lập giao ước với dân Ngài, nên thường dùng trong các đoạn có liên quan với giao ước đó. Có lẽ Môi-se, nhờ Đức Chúa Trời soi dẫn, có dùng đến những bản viết hoặc ký ức đó, nhứt là những biểu kê về Gia phổ. Song độc giả phải công nhận rằng Sáng thế ký là một sách có mục đích và đại ý liên lạc chặt chẽ, hiệp nhất với nhau suốt cả sách. Cũng phải công nhận lối dùng danh Đức Chúa Trời của tác giả dầu không phải một cách quyết đoán, song vẫn rất thuận hiệp với tài liệu và rất chính xác nữa.
Có nhiều chứng cớ tỏ ra Môi-se chắc chắn là tác giả của sách Sáng thế ký. Khi xét sách Sáng thế ký ta thấy các sự việc xảy ra trong các đời được ghi lại một cách tỉ mỉ rõ ràng, và được lưu truyền từ đời thái cổ. Có học sĩ nói vì có chép đến "Si-lô" trong Sáng 49:10, nên chắc đó là chứng cớ Sáng thế ký chép sau thời lập Đền tạm tại Si-lô. Song bản quốc văn tỏ rõ "Shioh" đó chỉ về Đấng Mê-si, chứ không phải chỉ về việc Đền tạm dời đến Si-lô. Học sĩ đó cũng lấy Sáng 12:6; 13:7; 22:2; 36:31; 13:18; 23:2; 14:14 mà cho rằng: dường như lúc chép Sáng thế ký không có thổ dân Ca-na-an trong xứ đó nữa, v.v, vì những câu đó thật thuộc thời sau đời Môi-se. Nhưng xét rõ thì biết ngay trong đời Áp-ra-ham, dân Ca-na-an còn trong xứ mình, chưa bị đuổi đi. Theo Sáng 10:6, 15; 9:25 thì Áp-ra-ham đến xứ đó thấy người Ca-na-an còn ở. Còn mấy câu khác nữa, song không có gì để tỏ ra sách Sáng thế ký chép sau đời Môi-se. Như đã nói trên, những sự việc được ghi lại trong Sáng thế ký chứng tỏ rằng tác giả nhờ sự từng trải và sự từng biết mà chép ra, điều đó cho thấy chỉ có Môi-se mới có thể chép như vậy. Như giám mục Brown viết: "Rất đáng nghi ngờ, nếu tác giả sách Sáng thế ký là người đồng thời vớISa lại có thể chép lịch sử các tổ phụ giống mình cách trung tín, chơn thật, và đơn sơ, đúng về những tiểu tiết như trong Sáng thế ký gọi là sách thứ nhứt của Môi-se."
III.Tóm tắt.--
Sáng thế ký có phải chép theo những lời truyền khẩu, như thi sĩ Milton trong sách "Le Paradis perdu" mô tả thiên sứ Gáp-ri-ên thuật cho A-đam những điều lạ lùng về công cuộc sáng tạo không? Ấy chỉ là giả thuyết; nhưng chắc Chúa có dạy cho A-đam biết những sự đó, và thủy tổ nói với Mê-tu-sê-la, rồi truyền tụng đến đời Nô-ê, Áp-ra-ham, Y-sác, Giô-sép, Môi-se. Bất cứ là cách nào, Công 7:37, 38 chép rõ căn nguyên và tác giả của Sáng thế ký: tức Môi-se nhận từ Đức Chúa Trời, và ra đời tại núi Si-na-i! Tiến sĩ A-đam Clark viết: "Truyện chép trong Sáng thế ký là đơn sơ, chân thật, thống nhất với nhau, ghi đúng những niên hiệu, các tiểu sử được trình bày rõ ràng, đúng về những tiểu tiết, tinh sạch về đạo đức, và ý định tốt lành, đến nỗi bày tỏ cách đầy đủ căn nguyên sách nầy không phải từ thế gian mà có được!"
III. Đại ý và mục đích.-- Sách Sáng thế ký (kèm theo với những đoạn đầu sách Xuất Ai-cập) mô tả những bước dẫn đến sự thiết lập Thần quyền. Ấy là một phần chương trình của trước giả để trình bày cho ta biết sự việc Đức Chúa Trời sửa soạn thế gian cách nào, hầu để tỏ ra ý nghĩa của sự kêu gọi Áp-ra-ham và tánh chất của Thần quyền trên người Do-thái. Trước giả mở đầu với cuộc sáng tạo thế gian, vì Đức Chúa Trời đã dựng nên thế gian cũng là một với việc Đức Chúa Trời tỏ mình Ngài cho các tổ phụ. Như vậy, sách Sáng thế ký có tinh cách đặc biệt và phổ thông, nói về Đức Chúa Trời là Chúa của cả loài người. Song như lời tiểu dẫn cho lịch sử dân Do-thái, sách để quyền lợi chung phụ thuộc vào quyền lợi của một quốc gia. Có năm người làm cột trụ, hay nói cho đúng hơn là có năm cái nền, mà trên các nền đó công trình kiến thiết được đặt lên: A-đam, Nô-ê, Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
I. A-đam.-- Cuộc sáng tạo thế gian, và buổi sớm nhứt về lịch sử loài người (1:1--3:1-). Dầu vậy, thời gian này chưa có sự phân chia các chi họ loài người.
II. Nô-ê.-- Lịch sử của dòng dõi A-đam đến sự chết của Nô-ê (4:1--9:1-). Tại đây ta có: (1) Dòng của Ca-in tẻ tách ra. (2) Lịch sử theo dòng dõi Sết, mà các dòng dõi người được chép trong gia-phổ, không hề đứt quãng mãi cho đến đời Nô-ê. (3) lịch sử của chính Nô-ê (6:1--9) tiếp nối cho đến khi người chết.
III. Áp-ra-ham.-- Dòng dõi của Nô-ê cho đến khi Áp-ra-ham qua đời (10:1--25:18). Tại đây, ta có:
(1) Dân cư ở khắp thế gian bởi dòng dõi ba con trai của Nô-ê sinh ra (11:1-9). (2) Dòng dõi Sem tiếp nối (11:10-32) cho đến tận Tha-rê và Áp-ra-ham. Tại đây, biểu kê về gia phổ đứt quãng. (3) Áp-ra-ham, con của Tha-rê là người được ơn Chúa chọn (12:1--25:18).Vì Tha-rê có hai con trai khác nữa: Na-cô và Ha-ran (11:27), nên ở đây có thêm vào vài điều về hai chi họ đó. Có nói đến Lót (con trai của Ha-ran) di cư với Áp-ra-ham đến xứ Ca-na-an, cũng nói Lót là cha của Mô-áp và Am-môn (19:37, 38) là những dân tộc mà sau nầy có liên quan với dòng dõi Áp-ra-ham. Na-cô vẫn ở lại xứ Mê-sô-bô-ta-mi, dòng dõi của người có kể ra cách vắn tắt (22:20-24), la vì cớ Rê-be-ca là người sau này làm vợ Y-sác. Về con của Áp-ra-ham có những chi nhánh tẻ tách ra, trước nhứt là dòng dõi bởi Ích-ma-ên (21:9, v.v.), và kế đến các con của Kê-tu-ra, những điều chép về gia phổ của hai chi nhánh đó dường như chép chung với nhau (25:1-6 và 25:12-18). Đến cuối đời Áp-ra-ham, dòng chính của lịch sử Y-sơ-ra-ên phát xuất ra trong gia tộc Y-sác.
IV. Y-sác.-- Đời của Y-sác (25:19-35:29) là một đời ẩn dật và không có biến động nào. Song trong vòng các con của Y-sác có sự chia rẽ, cuối cùng để lại chỗ cho lịch sử về dòng dõi được lựa chọn. Cả đến khi gia đình của Na-cô có ở đó, như trong đoạn 29, ta cũng thấy những chi tiết đó dường như thêm vào sự cần thiết để chiếu sáng trên cuộc đời của Gia-cốp.
V. Gia-cốp.-- Lịch sử của Gia-cốp và Giô-sép (36:1). Tại đây, sau khi Y-sác qua đời, ta có:
(1) Dòng dõi Ê-sau (36:1-) sau đó trong sách không nói thêm nữa. (2) Lịch sử của các tổ phụ, cứ tiếp nối cho đến sự chết của Giô-sép (37:1--50:1-). Có thể thấy rõ một chương trình đặc biệt đã được chuẩn bị sẵn và mục đích chính chẳng bao giờ quên được: Sự liên lạc của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên là điều chiếm chỗ lớn nhứt trong trí tác giả. Lịch sử của dòng dõi được lựa chọn, là những con kế tự của lời hứa và kẻ giữ lời phán của Đức Chúa Trời, lịch sử đó cắt nghĩa sự quan hệ giữa Đức Chúa Trời va loài người. Bởi ánh sáng lịch sử đó, mọi sự khác cũng được sáng tỏ ra. Ta thấy trong lịch sử nầy những gia đình khác, ngoài dòng dõi của Gia-cốp, thì chỉ nói đến cách vắn tắt. Chắc chắn, ta có thể nói rằng suốt cả sách Sáng thế ký la một chương trình có hệ thống.
Như vậy, ta thấy Sáng thế ký là một lịch sử tôn giáo, bỏ qua những tiểu tiết không cần thiết về các dân tộc khác, để tập trung ý trên căn nguyên của dân tộc mà từ đó Đấng Cứu chuộc đã hứa sẽ ra. Bởi thế, Sáng thế ký chỉ chép biểu kê gia phổ các dân tộc, nhưng thuật rất kỹ về các tổ phụ tin kính thuộc gia phổ Đấng Cứu thế, vì điều đó còn quan trọng hơn việc chép lại về sự dấy lên và suy đồi của các đế quốc hùng mạnh. Sáng thế ký đã chọn những tiểu tiết của lịch sử các tổ phụ mà chép để làm thí dụ về các nguyên lý thuộc linh, và bày tỏ ra mục đích tốt lành của Đức Chúa Trời về sự cứu chuộc loài người.
IV. Phân tích.-- Xin gợi ý về ba lối phân tích sách nầy:
1. Sáng thế ký có thể chia làm ba phần lớn: (1) Lịch sử vũ trụ, bày tỏ sự liên quan của Đức Chúa Trời đối với vũ trụ, và đưa lịch sử loài người vào (1:1-2:3). (2) Phác họa về lịch sử loài người trước Áp-ra-ham, sự liên hệ giữa Đức Chúa Trời với loài người, và việc đưa lịch sử của tuyển dân vào (2:4-11:26); (3) Lịch sử dân sự của giao ước cho đến thời xuống Ai-cập (11:27-50:1-). Phần lớn thứ hai có bao gồm sự dựng nên cả loài người và địa vị như vốn có (2:4-25), sự sa ngã (3:1-), sự tiến triển về tội lỗi (4:1-15), nòi giống thế gian (4:16-24), dòng giống tin kính (4:25-5:32), thêm sự gian ác (6:1-8), nước lụt (6:9-9:17), lập lại dân cư ở khắp thế gian (9:18-10:32), sự xây cất tháp Ba-bên (11:1-9), và dòng giống Sem lúc mới nảy mầm (11:10-26). Phần lớn thứ ba đó gồm lại lịch sử ban đầu của Áp-ra-ham, sự kêu gọi và sự trú ngụ tại Ca-na-an (11:27-25:10), đời sống của Y-sác từ sự chết của cha, cho đến khi khởi hành xuống xứ Mê-sô-bô-ta-mi (25:11-27:40), còn đời sống của Gia-cốp từ khi qua xứ Mê-sô-bô-ta-mi cho đến khi Y-sác qua đời (27:41-35:29), dòng dõi của Ê-sau (36:1-) lịch sử của Giô-sép đến khi người bị bán xuống xứ Ai-cập (37:1-), tội lỗi và sự xấu hổ của Do-thái (38:1-), Giô-sép ở trong xứ Ai-cập (39:1--45:1-), Gia-cốp và cả nhà với Giô-sép tại xứ Ai-cập (46:1--49:1-), sự chết của Gia-cốp và Giô-sép (50:1-).
2. Đây là lối phân tích thứ hai: Trước giả Sáng thế ký, sau lời tiểu dẫn (1:1--2:3), đã chép gồm cả truyện trong 10 phần liên tiếp nhau, mỗi phần bắt đầu với câu: "Nầy là dòng dõi của..." Xem 2:4-4:26; 5:1-6:8; 6:9-9:29; 10:1-11:9; 11:10-26; 11:27-25:11; 25:12-18; 25:19-35:29; 36:1-37:1; 37:2-50:26.
3. Đây là lối phân tích thứ ba: "Ban đầu" là chìa khóa của 9 phần lớn.
A. Sáng thế ký là một lịch sử thượng cổ gồm lại một khoảng trên 2000 năm (1:1--11:9). (1) Ban đầu của thế gian vật chất (1:1-25). a) Câu 1:1 nói về sự tạo thành như vốn có. b) Ês 45:18 nói Đức Chúa Trời không dựng nên thế gian như thấy trong câu 1:2. c) Xem IIPhi 3:5, 6. d) Sáu ngày chép là sáu ngày lập lại. (2) Ban đầu của loài người (1:26-2:1-) a) Người được dựng nên không phải bởi sự tiến hóa. b) Người được đặt vào trong vườn Ê-đen. Nghĩa tên nầy theo tiếng Accadian (A-cát, 10:10) là hoang vu, vì Ê-đen vốn như thế. (3) Ban đầu của tội lỗi loài người (3:1-7). a) Đổi sai lời Chúa, người nữ bớt và thêm vào lời Ngài. b) Người nữ "thấy, " "hái ăn, " và "trao cho." (4) Ban đầu những Khải thị về sự cứu chuộc (3:8-24). a) Lời hứa thứ nhứt về Đấng Cứu chuộc, là khởi đầu những sự khải thị sau. b) Lần thứ hai chép về các thần Chê-ru-bin (Xuất 25:20) thì không thấy có gươm vì có huyết. (5) Ban đầu của gia đình loài người (4:1-15). a) Gia đình thứ nhứt. b) Sự cãi lẫy thứ nhứt trong gia đình là về tôn giáo. c) Nên chú ý 4:7 chép "tội lỗi rình đợi trước cửa" như một con thú dữ. (6) Ban đầu của sự văn minh vô đạo (4:16-9:1-.) a) Thành thứ nhứt được xây dựng, và sự sống nơi thành thị do từ một kẻ giết người. b) Nên chú ý 4:23 và 26.
(7) Ban đầu của các dân tộc trên thế gian (10:1-).
a) Phần nầy rất quan trọng.
b) Tại đây, ta có nguồn gốc của các dân tộc.
(8) Ban đầu của sự lộn xộn tiếng nói (11:1-).
a) Lần thứ nhứt loài người thử được hiệp một ngoài Đức Chúa Trời. b) Sự thử tại tháp Ba-bên để cho loài người hiệp một sẽ diễn lại bởi Antichrist. Xem Khải 17:1-.
B. Lịch sử các Tổ phụ trên 300 năm.
(9) Ban đầu của nòi giống Hê-bơ-rơ (12:1--50:1-).
a) Phần nầy chép tiểu sử các tổ phụ.
b) Tiểu sử của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
V. Sứ mạng của sách.--
(1) Ấy là loài người trong mọi sự thất bại có thể nhờ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
(2) Người cần phải nhận biết sự yếu đuối và sự thiếu thốn của chính mình trước khi tình nguyện chọn Đức Chúa Trời.
(3) Trong Sáng thế ký ta thấy con người thất bại:
a) Ở giữa một nơi toàn hảo (Ê-đen).
b) Dưới sự cai trị của lương tâm (từ sự Sa ngã đến Nước lụt).
c) Dưới sự cai trị của các Tổ phụ (từ Nô-ê đến Giô-sép). Chú ý: sách bắt đầu chép Đức Chúa Trời và cuối cùng chép về một quan tài.
(4) Trong sự thất bại, con người có thể nhờ ân điển và quyền năng của Chúa. "Nơi nào tội lỗi đã gia thêm thì ân điển lại càng dự dật hơn nữa" (Rô 5:20).
Tiến sĩ Scofield chú thích về Sáng thế ký như sau nầy:
Sáng thế ký là một sách của những sự ban đầu. Sách không những chỉ thuật sự khởi đầu của trời và đất, cây cỏ, thú vật và loài người, song cũng chép về những sự thiết lập và những sự quan hệ của loài người. Về hình bóng, sách nói về sự sanh lại, trời đất mới, tại đó trước kia hết thảy đều là vô hình và đổ nát. Với Sáng thế ký, bắt đầu trình bày một cách tuần tự sự khải thị của chính Đức Chúa Trời được hoàn thành ở trong Đấng Christ. Có ba tên của Đức Chúa Trời: Ê-lô-him, Giê-hô-va, và Adonai, và năm tên phức hợp quan trọng nhứt được ghi chép trong Sáng thế ký.
Vấn đề tội lỗi có liên quan đến địa vị của loài người ở trên đất, sự liên hệ của con người với Đức Chúa Trời, và sự giải quyết vấn đề đó, bày tỏ phần cốt yếu ở đây. Về tám giao ước lớn làm điều kiện cho sự sống của loài người và sự cứu chuộc của Chúa, trong đó bốn giao ước về vườn Ê-đen, với A-đam, Nô-ê và Áp-ra-ham đều ở trong sách nầy; và đó là những giao ước nền tảng, còn bốn giao ước khác với Môi-se, Pha-lê-tin, Đa-vít và các Giao ước Mới, được thuật lại cốt để thêm chi tiết.
Sáng thế ký cũng được đưa vào trong sự thiết lập Tân Ước, trong đó trích lục trên 60 lần trong 17 sách. Bởi đó, theo ý sâu nhiệm, cội rễ của mọi sự khải thị về sau, đã được đâm rất sâu trong Sáng thế ký, ai muốn thật hiểu thì phải khởi sự từ sách nầy.
Sự soi dẫn để viết sách Sáng thế ký có tính cách như là một khải thị của Đức Chúa Trời, có lời chứng là thật của lịch sử và của Đấng Christ (Mat 19:4-6; 24:37-39; Mác 10:4-9; Lu 11:49-51; 17:26-29, 32; Giăng 1:51; 7:21-23; 8:44, 56).
Sáng thế ký chia làm năm phần chính: (I) Cuộc tạo thành (1:1-2:25). (II) Sự sa ngã và sự cứu chuộc (3:1-4:7). (III) Các dòng dõi khác nhau, Ca-in và Sết cho đến Nước lụt (4:8-7:24). (IV) Nước lụt cho đến Ba-bên (8:1-11:9). (V) Từ sự kêu gọi Áp-ra-ham cho đến sự chết của Giô-sép (11:10-50:26).
Sáng 23:4.-- So Sáng 33:19; 50:13; Giô 24:32; Công 7:15, 16. Người ta tưởng rằng có sự khác nhau trong các câu nầy. Song điều đó sẽ không còn nữa, nếu ta giả định cách tự nhiên rằng: trong khoảng thời gian 80 năm trước, lúc Áp-ra-ham mua mộ địa cho gia đình trên đất của dân họ Hếch (Sáng 23:4, 20) và lúc Gia-cốp mua đất đó (Sáng 33:19), thì "con cháu Hê-mô" (Công 7:15, 16) đã lấy lại đồng ruộng, trong đó có hang đá Mặc-bê-la làm mộ địa. Nếu quyết định rằng đó là sản nghiệp xưa của tổ phụ để lại, thì Gia-cốp mua đồng ruộng đó lại lần nữa. Hếch là tổ tông chung của con cháu Hêmô.
Sáng 46:26.So với câu 27. Người ta tưởng là có sự đối nghịch nhau. "Các người đến xứ Ai-cập với Gia-cốp" là 66 người (câu 26). "Các người thuộc về nhà Gia-cốp đi đến Ê-díp-tô" (câu 27), tức là hết cả chi họ Gia-cốp là 70 người, tức là gồm 66 người đi cùng Gia-cốp cộng với Giô-sép và hai con người, đã ở trong Ai-cập, là 69 người, với chính Gia-cốp là 70 người. So Công 7:14 ở đó gồm lại cả vợ các con Gia-cốp.
Giới thiệu STK
|
|
Giải Nghĩa Sáng Thế Ký Warren W. Wiersbe
|
Sáng Thế Ký
Tác giả : Paul B.Hoff |
|
Sáng Thế Ký
|
|
Sô-đôm và Gô-mô-ra
|
|
XUẤT Ê-DÝP-TÔ KÝ hoặc Sách Xuất Ai-cập Ký
EXODUS
EXODUS
xuat_edipto_ky.docx | |
File Size: | 24 kb |
File Type: | docx |
Sách Xuất Ê-díp-tô ký, hoặc Sách Xuất Ai-cập Ký\ Exodus.
Sách nầy là lịch sử Y-sơ-ra-ên: (1) Bị làm tôi mọi. (2) Được chuộc. (3) Dâng mình về phần tôn giáo và chính trị cho Đức Chúa Trời. Có hai phần riêng biệt. (a) Đoạn 1:1--19:1-, lịch sử của sự giải phóng Y-sơ-ra-ên từ lúc ban đầu làm tôi mọi ở Ai-cập đến khi họ tới núi Si-na-i. (b) Đoạn 20:1--40:1- -- sự ban luật pháp và tổ chức Y-sơ-ra-ên trở nên "một nước thầy tế lễ và một dân thánh." Hai phần, dầu khác nhau về các sự kiện, nhưng có sự liên hiệp chặt chẽ; sự thiết lập luật pháp trong phần thứ hai căn cứ trên những sự thực lịch sử thuật lại ở phần trên. Danh từ Xuất, tức Xuất Ai-cập, tức "đi ra, " lấy từ bản Septante, và bản tiếng Hy-lạp của người Do-thái ở thành Alexandrie đã ở trong xứ mà chính người Y-sơ-ra-ên đi ra. Người Do-thái ở Pha-lê-tin đặt tên cho sách nhờ hai tiếng Hê-bơ-rơ ở đầu sách, Elleh Shemoth, "ấy là các tên." Sự phân biệt khỏi sách Sáng thế ký được tỏ bởi các hoàn cảnh khác nhau, nhờ đó mà tỏ ra Y-sơ-ra-ên lúc ban đầu như so sánh với cuốn sách Sáng thế ký. Bảy câu đầu là lời tiểu dẫn tóm tắt ôn lại những biến động trước đó và nói về tình hình hiện tại. Cuốn sách chép sự hoàn thành của Hội mạc. Các phần sách nầy có lẽ được viết trên giấy rời papyrus hoặc giấy da chiên (dựa theo một bảng khắc của Thothmès III, chiến trận của vua được chép trên giấy da và treo trong đền thờ thần Am-môn). Những chỗ đứt quãng trong truyện tích, và những sự lặp lại, hiệp với lý thuyết rằng có những phần khác hẳn nhau, soạn riêng biệt bởi Môi-se như các biến động xảy ra, và được đọc trước công chúng trong các thời gian nối tiếp nhau. Hết cả có thể thu lại thành một sách lúc gần mãn đời Môi-se, trừ ra một vài lời thêm vào là lời giải nghĩa.
Nếu không phải Môi-se là tác giả sách Xuất Ê-díp-tô ký thì có một điều rất khó giải nghĩa là: người chép dường như không biết sự lớn lao riêng của mình là người chủ động quan trọng nhứt. Môi-se là người rất được tôn trọng trong xứ Ai-cập (11:3), song tác giả trong lúc công nhận chức vụ lớn lao của Môi-se, chú ý đặc biệt về sự người thiếu tài phú bẩm tự nhiên, sự sơ xuất về tánh nết, và bởi đó có những sự ngăn trở chức vụ mình, và những sự hình phạt người chịu; sự vội vàng can thiệp giữa người Y-sơ-ra-ên và người Ai-cập, tội giết người, việc dân Y-sơ-ra-ên từ chối người làm kẻ lãnh đạo, và sự lưu đày trong một khoảng thời gian quan trọng là 40 năm. Sau đến sự lưỡng lự vô tín khi nghe tiếng gọi của Đức Chúa Trời, và sự cứng cỏi nói là tự mình không đủ tài mặc dầu có phép lạ làm cho người tin rằng ấy là quyền phép của Đức Chúa Trời làm cho mình có thể làm được (3:10-13). Kế đó, chính Chúa đến thăm người (có lẽ bất thường và giáng bịnh nguy hiểm) vì chểnh mảng không làm phép cắt bì cho con (4:24-26). Kế đến sự trách Đức Giê-hô-va vì mình thất bại lời tâu đầu tiên với Pha-ra-ôn, điều đó đem sự cay đắng hơn nữa trên Y-sơ-ra-ên (5:20-23). Sự can đảm của người trước Pha-ra-ôn chẳng bao giờ được khen. Không phải do sự khôn ngoan, hoặc thấy trước của người, song là sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời được tỏ rất rõ suốt cả sách. Chiến trận thứ nhứt của dân Y-sơ-ra-ên là ở dưới quyền dẫn dắt của Giô-suê. Chỉ có một điều có thể nói là bởi sự khôn khéo của người, ấy là sự tổ chức một đoàn quan xét giúp đỡ mình trong việc xét đoán cho dân sự (18:1-), ý kiến nầy lại thuộc Giê-trô chứ không phải Môi-se. Cũng những đức tánh đó thấy trong sách Ngũ kinh, sau người không thể giữ lòng tin quyết khi bị Mi-ri-am và A-rôn công kích (Dân 12:1-); thái độ nóng nảy tại Mê-ri-ba và tại Ca-đe, đập hòn đá cách vô lễ và bởi đó bị Đức Chúa Trời không cho bước chân vào xứ đã hứa. Nếu Môi-se thật là tác giả thì ta có thể trông đợi hết thảy mọi sự như thế, song không một tác giả nào khác lại làm thinh về tánh nết vĩ đại của Môi-se. Hãy so sánh ba câu chót trong Phục truyền luật lệ ký thêm bởi người sửa lại đó thuật lại về sự chết của Môi-se. Thật ra, cả sách tỏ ra Môi-se là tác giả.
Sách Xuất Ê-díp-tô ký được viết bởi một người quen biết những điều rất nhỏ mọn cả Ai-cập lẫn bán đảo Si-na-i. Đường từ Ai-cập đến Hô-rếp được mô tả về những đặc sắc địa phương rất tinh tường của một người đã chứng kiến; không có người nào chứng kiến cuộc hành trình của Y-sơ-ra-ên ngoài Môi-se xem xét kỹ như vậy. Những phép lạ hiệp với nơi chốn, thời gian và hoàn cảnh đã xảy ra; mười tai vạ tỏ ra thuộc xứ Ai-cập, sự cung cấp điều cần dùng cho Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng có tương hiệp với những đặc sắc quốc gia của xứ. Canon Cook nói thật đúng rằng: "Ta thấy cõi thiên nhiên khắp cả, song cõi thiên nhiên trong cánh tay Đấng Chủ tể."
Chỉ có một người trong những hoàn cảnh của Môi-se có thể lấy đặc sắc địa phương mà mô tả sự lưu lạc trong đồng vắng tại núi Si-na-i. Cùng một lúc chính những sự phản đối về mấy điều trong các tiểu tiết của Môi-se về địa vị khác nhau của bán đảo ngày nay trong vài mặt, chỉ chứng quyết sự cổ xưa và chân thật của lời chép người. Đồng vắng ngày nay thật không thể nào có thể cung cấp sự cần dùng cho chừng đó người, cũng không phải là lời để đáp lại sự phản đối đó mà nói rằng ấy là Đức Chúa Trời xen vào mà nuôi nấng họ. Về những sự can thiệp bởi Chúa lo liệu chỉ hạn chế trong các dịp đặc biệt. Thông thường, dựa theo cách Đức Chúa Trời đối đãi với con cái Ngài thì họ thường nhờ vào những nguồn lợi tự nhiên.
Các bảng khắc trong cả Ai-cập và bán đảo, rất sớm vào hồi Snefru, dòng vua thứ III, ba dòng vua tiếp theo, và dòng của Hatasu, vợ góa của Thothmès II (chết đuối trong Biển Đỏ) mô tả những sự thắng trận trên Mentu, những người ở trên núi của bán đảo, và các bộ lạc khác ở đó. Những điều ấy chứng tỏ rằng thời bấy giờ thật có một dân tộc lớn như vậy đến nỗi họ có thể chống với đạo binh Ai-cập. Những người Ai-cập thành công trong sự khai mỏ đồng bóng láng tại Sarbet el Khadim và Mughara, tại đó có nhiều bảng khắc cổ. Những suối và giếng nước vào hồi đó còn giữ cẩn thận, hầu cho có thể mở cuộc bang giao với các người kiều ngụ tại đó. Bảng khắc về mỏ vàng tại gần Dakkeh nói đến một giếng sâu chừng 60 thước, đào bởi lệnh của Seti I và Ram-se II. Những cây cối cũng được gìn giữ và trồng cây mới. Song từ khi người Ai-cập mất quyền thì người A-rạp trải các đời đốn cây, làm cho đất trở nên khô cằn từ đó xứ không còn phì nhiêu.
Những sự giống nhau không định trước giữa vị trí hiện tại của bán đảo và truyện kể trong Xuất Ê-díp-tô ký chứng quyết sự đúng và chân thật của sách. Xuất Ê-díp-tô ký mô tả những nơi chẳng có nước cho dân sự uống và nay nơi đó không tìm đâu được có nước; hoặc nơi mô tả có nước dư dật trong các nơi có suối, thì có tìm thấy dấu tích một chỗ xưa có rất nhiều nước; và những đường đi mà lương thực không tìm được, thì bánh ma na là phép lạ của Chúa để nuôi đoàn dân đông đúc. Địa điểm những đoàn du mục hãm đánh Y-sơ-ra-ên thì người ta thấy trùng hợp đúng các nơi họ bị đánh theo tên địa phương tỏ ra hiện nay. Lời truyền khẩu không thay đổi của người Do-thái, mà Xuất Ê-díp-tô ký nói đến, chứng quyết sách là thật vì cớ vô số sự thuận hiệp chép trong sách.
Xem bài: Hội Mạc, vì tại đó tỏ ra sách là chân thật.
Trong sách có vài hình bóng về Đấng Christ như Môi-se (Phục 18:15), A-rôn (Hêb 4:14-16), chiên con lễ Vượt qua (Xuất 12:46; Giăng 19:36; ICôr 5:7, 8), ma na (Xuất 16:15; ICôr 10:3), hòn đá tại núi Hô-rếp (Xuất 17:6; ICôr 10:4), hòm bảng chứng (Xuất 37:1; Rô 3:25; Hêb 4:16), Hội mạc (Xuất 40). Nói về Đấng Christ, Giăng 1:14 chép rằng: "ở giữa chúng ta, " theo nguyên văn là "hội mạc ở giữa chúng ta."
Nhận xét ý biên tập sách nầy không phải chỉ chú trọng về mặt lịch sử, nhưng cốt tả kỹ Đức Chúa Trời bấy giờ cai trị dân Ngài thế nào; sách cho thấy rõ hơn về Đức Chúa Trời là Đấng Toàn năng; muôn vật đều phải vâng theo mạng lịnh Ngài. Chúa là Đấng thành thực: Ngài hứa với Áp-ra-ham sẽ ban xứ Ca-na-an cho dòng dõi người làm sản nghiệp, thì lời hứa đó đời đời không thay đổi. Chúa là Đấng ban ơn: đã giúp dân về mặt dẫn dắt dạy dỗ, lại ban cho dân cơm áo và đồ dùng hằng ngày. Chúa là Đấng Chí thánh: hễ Ngài ban ra luật lệ và điều răn thì dân của Ngài đáng nên kính cẩn tuân theo. Chúa là Đấng kỵ tà: quyết không cho phép dân lựa chọn tôn vinh thần nào khác. Chúa là Đấng lập giao ước: muốn người Y-sơ-ra-ên thờ Ngài làm Chúa, lại càng muốn họ làm dân lựa chọn của Ngài.
Người tin đạo Đấng Christ đều thích đọc sách nầy, vì bề ngoài sách Xuất Ê-díp-tô ký kể tất cả những hành trình gian nan của Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập, mà kỳ thực bề trong là ngụ ý: người Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập, trải qua đồng vắng, ví như Hội Thánh ở thế gian, rồi sau có thể lên xứ Ca-na-an ở trên trời.
Tiến sĩ Scofield viết tiểu dẫn cho Xuất Ai-cập Ký như sau:
Xuất Ai-cập, tức "đi ra, " thuật lại sự cứu chuộc dòng dõi Áp-ra-ham khỏi làm nô lệ tại xứ Ai-cập, và bày tỏ, bằng hình bóng về mọi sự cứu chuộc. Bởi thế, sách nầy đặc biệt là sách của sự cứu chuộc. Song vì mọi sự cứu chuộc đều có liên quan tới Đức Chúa Trời, và sự liên quan đó được tỏ ra bằng sự thờ phượng, thông công, và hầu việc. Vậy Xuất Ai-cập, trong sự ban bố luật pháp và sự lo liệu về con sinh tế và chức tế lễ, chẳng những trở nên sách của sự cứu chuộc, song bởi hình bóng cũng là sách nói về những điều kiện mà mọi sự giao thông với Đức Chúa Trời nhờ đó mà có.
Nói rộng nghĩa, sách nầy dạy rằng sự cứu chuộc là cần thiết cho bất cứ sự quan hệ nào với Đức Chúa Trời thánh; và dạy rằng dầu là một dân được cứu chuộc cũng không thể giao thông với Ngài nếu không luôn luôn được tẩy sạch mọi sự ô uế.
Trong sách Xuất Ê-díp-tô ký cho thấy Đức Chúa Trời, trước có quan hệ với dân Y-sơ-ra-ên chỉ bởi giao ước Ngài lập với Áp-ra-ham, nay Ngài đem họ đến cùng với chính Ngài như một dân tộc bởi sự cứu chuộc, Ngài đặt họ dưới giao ước của Môi-se, và ngự giữa họ trong đám mây của sự vinh hiển. Thơ Ga-la-ti cắt nghĩa sự liên lạc luật pháp với giao ước của Áp-ra-ham. Trong các điều răn, Đức Chúa Trời dạy dỗ Y-sơ-ra-ên những sự công bình Ngài đòi hỏi nơi họ. Sự từng trải dưới mười điều răn cho Y-sơ-ra-ên biết về tội; và sự lập chức tế lễ và của lễ (đầy dẫy những hình bóng quí báu về Đấng Christ) ban cho dân tội lỗi một con đường tha tội, tinh sạch, lập lại để thông công, và thờ phượng.
Sách Xuất Ê-díp-tô ký chia làm ba phần lớn: (I) Y-sơ-ra-ên trong xứ Ai-cập (1:1--15:1-). (II) Từ Biển Đỏ đến núi Si-na-i (16:1--18:1-). (III) Y-sơ-ra-ên tại núi Si-na-i (19:1--40:1-).
Sách nầy là lịch sử Y-sơ-ra-ên: (1) Bị làm tôi mọi. (2) Được chuộc. (3) Dâng mình về phần tôn giáo và chính trị cho Đức Chúa Trời. Có hai phần riêng biệt. (a) Đoạn 1:1--19:1-, lịch sử của sự giải phóng Y-sơ-ra-ên từ lúc ban đầu làm tôi mọi ở Ai-cập đến khi họ tới núi Si-na-i. (b) Đoạn 20:1--40:1- -- sự ban luật pháp và tổ chức Y-sơ-ra-ên trở nên "một nước thầy tế lễ và một dân thánh." Hai phần, dầu khác nhau về các sự kiện, nhưng có sự liên hiệp chặt chẽ; sự thiết lập luật pháp trong phần thứ hai căn cứ trên những sự thực lịch sử thuật lại ở phần trên. Danh từ Xuất, tức Xuất Ai-cập, tức "đi ra, " lấy từ bản Septante, và bản tiếng Hy-lạp của người Do-thái ở thành Alexandrie đã ở trong xứ mà chính người Y-sơ-ra-ên đi ra. Người Do-thái ở Pha-lê-tin đặt tên cho sách nhờ hai tiếng Hê-bơ-rơ ở đầu sách, Elleh Shemoth, "ấy là các tên." Sự phân biệt khỏi sách Sáng thế ký được tỏ bởi các hoàn cảnh khác nhau, nhờ đó mà tỏ ra Y-sơ-ra-ên lúc ban đầu như so sánh với cuốn sách Sáng thế ký. Bảy câu đầu là lời tiểu dẫn tóm tắt ôn lại những biến động trước đó và nói về tình hình hiện tại. Cuốn sách chép sự hoàn thành của Hội mạc. Các phần sách nầy có lẽ được viết trên giấy rời papyrus hoặc giấy da chiên (dựa theo một bảng khắc của Thothmès III, chiến trận của vua được chép trên giấy da và treo trong đền thờ thần Am-môn). Những chỗ đứt quãng trong truyện tích, và những sự lặp lại, hiệp với lý thuyết rằng có những phần khác hẳn nhau, soạn riêng biệt bởi Môi-se như các biến động xảy ra, và được đọc trước công chúng trong các thời gian nối tiếp nhau. Hết cả có thể thu lại thành một sách lúc gần mãn đời Môi-se, trừ ra một vài lời thêm vào là lời giải nghĩa.
Nếu không phải Môi-se là tác giả sách Xuất Ê-díp-tô ký thì có một điều rất khó giải nghĩa là: người chép dường như không biết sự lớn lao riêng của mình là người chủ động quan trọng nhứt. Môi-se là người rất được tôn trọng trong xứ Ai-cập (11:3), song tác giả trong lúc công nhận chức vụ lớn lao của Môi-se, chú ý đặc biệt về sự người thiếu tài phú bẩm tự nhiên, sự sơ xuất về tánh nết, và bởi đó có những sự ngăn trở chức vụ mình, và những sự hình phạt người chịu; sự vội vàng can thiệp giữa người Y-sơ-ra-ên và người Ai-cập, tội giết người, việc dân Y-sơ-ra-ên từ chối người làm kẻ lãnh đạo, và sự lưu đày trong một khoảng thời gian quan trọng là 40 năm. Sau đến sự lưỡng lự vô tín khi nghe tiếng gọi của Đức Chúa Trời, và sự cứng cỏi nói là tự mình không đủ tài mặc dầu có phép lạ làm cho người tin rằng ấy là quyền phép của Đức Chúa Trời làm cho mình có thể làm được (3:10-13). Kế đó, chính Chúa đến thăm người (có lẽ bất thường và giáng bịnh nguy hiểm) vì chểnh mảng không làm phép cắt bì cho con (4:24-26). Kế đến sự trách Đức Giê-hô-va vì mình thất bại lời tâu đầu tiên với Pha-ra-ôn, điều đó đem sự cay đắng hơn nữa trên Y-sơ-ra-ên (5:20-23). Sự can đảm của người trước Pha-ra-ôn chẳng bao giờ được khen. Không phải do sự khôn ngoan, hoặc thấy trước của người, song là sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời được tỏ rất rõ suốt cả sách. Chiến trận thứ nhứt của dân Y-sơ-ra-ên là ở dưới quyền dẫn dắt của Giô-suê. Chỉ có một điều có thể nói là bởi sự khôn khéo của người, ấy là sự tổ chức một đoàn quan xét giúp đỡ mình trong việc xét đoán cho dân sự (18:1-), ý kiến nầy lại thuộc Giê-trô chứ không phải Môi-se. Cũng những đức tánh đó thấy trong sách Ngũ kinh, sau người không thể giữ lòng tin quyết khi bị Mi-ri-am và A-rôn công kích (Dân 12:1-); thái độ nóng nảy tại Mê-ri-ba và tại Ca-đe, đập hòn đá cách vô lễ và bởi đó bị Đức Chúa Trời không cho bước chân vào xứ đã hứa. Nếu Môi-se thật là tác giả thì ta có thể trông đợi hết thảy mọi sự như thế, song không một tác giả nào khác lại làm thinh về tánh nết vĩ đại của Môi-se. Hãy so sánh ba câu chót trong Phục truyền luật lệ ký thêm bởi người sửa lại đó thuật lại về sự chết của Môi-se. Thật ra, cả sách tỏ ra Môi-se là tác giả.
Sách Xuất Ê-díp-tô ký được viết bởi một người quen biết những điều rất nhỏ mọn cả Ai-cập lẫn bán đảo Si-na-i. Đường từ Ai-cập đến Hô-rếp được mô tả về những đặc sắc địa phương rất tinh tường của một người đã chứng kiến; không có người nào chứng kiến cuộc hành trình của Y-sơ-ra-ên ngoài Môi-se xem xét kỹ như vậy. Những phép lạ hiệp với nơi chốn, thời gian và hoàn cảnh đã xảy ra; mười tai vạ tỏ ra thuộc xứ Ai-cập, sự cung cấp điều cần dùng cho Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng có tương hiệp với những đặc sắc quốc gia của xứ. Canon Cook nói thật đúng rằng: "Ta thấy cõi thiên nhiên khắp cả, song cõi thiên nhiên trong cánh tay Đấng Chủ tể."
Chỉ có một người trong những hoàn cảnh của Môi-se có thể lấy đặc sắc địa phương mà mô tả sự lưu lạc trong đồng vắng tại núi Si-na-i. Cùng một lúc chính những sự phản đối về mấy điều trong các tiểu tiết của Môi-se về địa vị khác nhau của bán đảo ngày nay trong vài mặt, chỉ chứng quyết sự cổ xưa và chân thật của lời chép người. Đồng vắng ngày nay thật không thể nào có thể cung cấp sự cần dùng cho chừng đó người, cũng không phải là lời để đáp lại sự phản đối đó mà nói rằng ấy là Đức Chúa Trời xen vào mà nuôi nấng họ. Về những sự can thiệp bởi Chúa lo liệu chỉ hạn chế trong các dịp đặc biệt. Thông thường, dựa theo cách Đức Chúa Trời đối đãi với con cái Ngài thì họ thường nhờ vào những nguồn lợi tự nhiên.
Các bảng khắc trong cả Ai-cập và bán đảo, rất sớm vào hồi Snefru, dòng vua thứ III, ba dòng vua tiếp theo, và dòng của Hatasu, vợ góa của Thothmès II (chết đuối trong Biển Đỏ) mô tả những sự thắng trận trên Mentu, những người ở trên núi của bán đảo, và các bộ lạc khác ở đó. Những điều ấy chứng tỏ rằng thời bấy giờ thật có một dân tộc lớn như vậy đến nỗi họ có thể chống với đạo binh Ai-cập. Những người Ai-cập thành công trong sự khai mỏ đồng bóng láng tại Sarbet el Khadim và Mughara, tại đó có nhiều bảng khắc cổ. Những suối và giếng nước vào hồi đó còn giữ cẩn thận, hầu cho có thể mở cuộc bang giao với các người kiều ngụ tại đó. Bảng khắc về mỏ vàng tại gần Dakkeh nói đến một giếng sâu chừng 60 thước, đào bởi lệnh của Seti I và Ram-se II. Những cây cối cũng được gìn giữ và trồng cây mới. Song từ khi người Ai-cập mất quyền thì người A-rạp trải các đời đốn cây, làm cho đất trở nên khô cằn từ đó xứ không còn phì nhiêu.
Những sự giống nhau không định trước giữa vị trí hiện tại của bán đảo và truyện kể trong Xuất Ê-díp-tô ký chứng quyết sự đúng và chân thật của sách. Xuất Ê-díp-tô ký mô tả những nơi chẳng có nước cho dân sự uống và nay nơi đó không tìm đâu được có nước; hoặc nơi mô tả có nước dư dật trong các nơi có suối, thì có tìm thấy dấu tích một chỗ xưa có rất nhiều nước; và những đường đi mà lương thực không tìm được, thì bánh ma na là phép lạ của Chúa để nuôi đoàn dân đông đúc. Địa điểm những đoàn du mục hãm đánh Y-sơ-ra-ên thì người ta thấy trùng hợp đúng các nơi họ bị đánh theo tên địa phương tỏ ra hiện nay. Lời truyền khẩu không thay đổi của người Do-thái, mà Xuất Ê-díp-tô ký nói đến, chứng quyết sách là thật vì cớ vô số sự thuận hiệp chép trong sách.
Xem bài: Hội Mạc, vì tại đó tỏ ra sách là chân thật.
Trong sách có vài hình bóng về Đấng Christ như Môi-se (Phục 18:15), A-rôn (Hêb 4:14-16), chiên con lễ Vượt qua (Xuất 12:46; Giăng 19:36; ICôr 5:7, 8), ma na (Xuất 16:15; ICôr 10:3), hòn đá tại núi Hô-rếp (Xuất 17:6; ICôr 10:4), hòm bảng chứng (Xuất 37:1; Rô 3:25; Hêb 4:16), Hội mạc (Xuất 40). Nói về Đấng Christ, Giăng 1:14 chép rằng: "ở giữa chúng ta, " theo nguyên văn là "hội mạc ở giữa chúng ta."
Nhận xét ý biên tập sách nầy không phải chỉ chú trọng về mặt lịch sử, nhưng cốt tả kỹ Đức Chúa Trời bấy giờ cai trị dân Ngài thế nào; sách cho thấy rõ hơn về Đức Chúa Trời là Đấng Toàn năng; muôn vật đều phải vâng theo mạng lịnh Ngài. Chúa là Đấng thành thực: Ngài hứa với Áp-ra-ham sẽ ban xứ Ca-na-an cho dòng dõi người làm sản nghiệp, thì lời hứa đó đời đời không thay đổi. Chúa là Đấng ban ơn: đã giúp dân về mặt dẫn dắt dạy dỗ, lại ban cho dân cơm áo và đồ dùng hằng ngày. Chúa là Đấng Chí thánh: hễ Ngài ban ra luật lệ và điều răn thì dân của Ngài đáng nên kính cẩn tuân theo. Chúa là Đấng kỵ tà: quyết không cho phép dân lựa chọn tôn vinh thần nào khác. Chúa là Đấng lập giao ước: muốn người Y-sơ-ra-ên thờ Ngài làm Chúa, lại càng muốn họ làm dân lựa chọn của Ngài.
Người tin đạo Đấng Christ đều thích đọc sách nầy, vì bề ngoài sách Xuất Ê-díp-tô ký kể tất cả những hành trình gian nan của Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập, mà kỳ thực bề trong là ngụ ý: người Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập, trải qua đồng vắng, ví như Hội Thánh ở thế gian, rồi sau có thể lên xứ Ca-na-an ở trên trời.
Tiến sĩ Scofield viết tiểu dẫn cho Xuất Ai-cập Ký như sau:
Xuất Ai-cập, tức "đi ra, " thuật lại sự cứu chuộc dòng dõi Áp-ra-ham khỏi làm nô lệ tại xứ Ai-cập, và bày tỏ, bằng hình bóng về mọi sự cứu chuộc. Bởi thế, sách nầy đặc biệt là sách của sự cứu chuộc. Song vì mọi sự cứu chuộc đều có liên quan tới Đức Chúa Trời, và sự liên quan đó được tỏ ra bằng sự thờ phượng, thông công, và hầu việc. Vậy Xuất Ai-cập, trong sự ban bố luật pháp và sự lo liệu về con sinh tế và chức tế lễ, chẳng những trở nên sách của sự cứu chuộc, song bởi hình bóng cũng là sách nói về những điều kiện mà mọi sự giao thông với Đức Chúa Trời nhờ đó mà có.
Nói rộng nghĩa, sách nầy dạy rằng sự cứu chuộc là cần thiết cho bất cứ sự quan hệ nào với Đức Chúa Trời thánh; và dạy rằng dầu là một dân được cứu chuộc cũng không thể giao thông với Ngài nếu không luôn luôn được tẩy sạch mọi sự ô uế.
Trong sách Xuất Ê-díp-tô ký cho thấy Đức Chúa Trời, trước có quan hệ với dân Y-sơ-ra-ên chỉ bởi giao ước Ngài lập với Áp-ra-ham, nay Ngài đem họ đến cùng với chính Ngài như một dân tộc bởi sự cứu chuộc, Ngài đặt họ dưới giao ước của Môi-se, và ngự giữa họ trong đám mây của sự vinh hiển. Thơ Ga-la-ti cắt nghĩa sự liên lạc luật pháp với giao ước của Áp-ra-ham. Trong các điều răn, Đức Chúa Trời dạy dỗ Y-sơ-ra-ên những sự công bình Ngài đòi hỏi nơi họ. Sự từng trải dưới mười điều răn cho Y-sơ-ra-ên biết về tội; và sự lập chức tế lễ và của lễ (đầy dẫy những hình bóng quí báu về Đấng Christ) ban cho dân tội lỗi một con đường tha tội, tinh sạch, lập lại để thông công, và thờ phượng.
Sách Xuất Ê-díp-tô ký chia làm ba phần lớn: (I) Y-sơ-ra-ên trong xứ Ai-cập (1:1--15:1-). (II) Từ Biển Đỏ đến núi Si-na-i (16:1--18:1-). (III) Y-sơ-ra-ên tại núi Si-na-i (19:1--40:1-).
Giải Nghĩa Xuất Ê-díp-tô Ký
Warren W. Wiersbe |
Ngày nay chúng ta thường nghe đến từ "giải phóng". Giải phóng một dân tộc khỏi ách áp bức chính trị. Giải phóng một cá nhân khỏi nạn đàn áp.
Nhiều người muốn được giải phóng để có tự do nhưng tự do là gì hoặc sẽ sử dụng tự do ra sao thì ít ai biết. Một triết gia, cũng là một người khuân vác, tên là Erick Hoffer đã biết trong quyển "The True Believer" (Tín Hữu Thật) rằng "Nếu một người không có khả năng để làm một chút gì đó thì ưự do quả là một gánh nặng khó chịu". Đúng vậy, những kẻ dại dột dùng sự tự do như một món đồ chơi, nhưng người khôn ngoan sử dụng tự do làm nên công nên chuyện. Ysơraên là một trường hợp tiêu biểu cho sự sử dụng tự do. Dân tộc Ysơraên là trường hợp tiêu biểu được nói đến ở đây. Đức Chúa Trời đã đem họ ra khỏi xứ Ai Cập để họ có thể hưởng lấy giao ước, nhưng họ chưa đủ chín chắn để sử dụng tự do của mình một cách hiệu quả. Hậu quả là cả một thế hệ dân Ysơraên phải tàn lụi khi phải lang thang trong sa mạc. Xuất Êdíptô Ký đã giải thích về sự tự do thật, về giá của sự tự do, và về cách sử dụng tự do. Xuất Êdíptô Ký cho chúng ta biết tự do không phải là phóng túng và kỷ luật không phải là ách nô lệ. Đức Chúa Trời cho chúng ta biết làm thế nào để hưởng tự do trọn vẹn trong ý muốn của Ngài, một phẩm chất thiết yếu trong Hội Thánh và trong thế giới của chúng ta ngày nay. Tự do rất quý, và trách nhiệm của sự tự do rất quan trọng, chúng ta không thể hưởng tự do mà không có trách nhiệm gì với tự do. Tôi tin tưởng rằng khi áp dụng các nguyên tắc thuộc linh trong sách Xuất Êdíptô Ký, ta sẽ tìm thấy sự tự do thật mà Cơ Đốc Nhân phải có trong Đức Chúa Giêxu Christ. Warren W. Wiersbe |
xuat_e-dip-to_ky_-_warren_w._wiersbe.pdf | |
File Size: | 2186 kb |
File Type: |
Xuất Ê-díp-tô ký
|
|
Xuất Ê-díp-tô ký - H. HALLEY
|
|
LÊ-VI-KÝ / LEVITIC
Giới thiệu Lê-vi-ky
|
|
Lê-vi ký, Sách\ Leviticus. Le Lévitique.
Giải Nghĩa Lê-vi-ký
Warren W. Wiersbe
|
Studies in the Book of Leviticus
DÂN SỐ KÝ / NUMBERS
Giải Nghĩa Dân Số Ký
Warren W. Wiersbe. |
Sách Dân Số Ký mở đầu với việc kiểm kê tất cả những người nam trong hạn tuổi chiến đấu. Họ được ghi vào sổ nhưng không phải tất cả đáng tin cậy, bởi lẽ ngoại trừ hai người, tất cả đều chết trong khi dân Y-sơ-ra-ên tiến qua đồng vắng. Rồi thế hệ sau được kiểm kê. Đây mới là những người Chúa "tin cậy". Họ tin lời Ngài, bước vào Đất Hứa, và nhận làm sản nghiệp.
Chưa bao giờ Hội Thánh cần những người Chúa tin cậy như ngày nay. Ngày nay chúng ta có quá nhiều "Cơ Đốc Nhân trên danh nghĩa", lang bang Hội Thánh này qua Hội Thánh khác, không thực sự trung thành phục vụ Chúa tại nơi Ngài đặt để mình. Chúng ta đang thua trận ở nhiều nơi là phải lắm. Nghiên cứu sách Dân Số Ký có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn cách Đức Chúa Trời tể trị dân Ngài, tại sao trung thành với Ngài là điều quan trọng, và làm cách nào để chúng ta có thể tăng trưởng thuộc linh giữa mọi khó khăn trong cuộc sống. Chúng ta đừng thất bại như thế hệ đầu tiên, chúng ta phải "nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần" (Rô-ma 8:37). Warren W. Wiersbe |
dan_so_ky_-_warren_w._wiersbe.pdf | |
File Size: | 2360 kb |
File Type: |
PHỤC TRUYỀN LUẬT LỆ KÝ / DEUTERONOMY
Giải Nghĩa PT Luật Lệ Ký
Warren W. Wiersbe |
Phục truyền luật lệ ký của lãnh tụ Môise có thể được xem là lời chào vĩnh biệt dân chúng trước khi ông về nước Chúa. Lời chào vĩnh biệt này - hay lời trối trăn - là một loạt bài giảnh mà Môise muốn dân chúng phải tuân hành một khi đã vào được Đất Hứa. Một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của thế hệ già là phải dạy cho thế hệ trẻ Lời Đức Chúa Trời cùng những nguyên tắc sống tin kính. Môise đã làm trọn công tác này thật tuyệt vời. Ngày nay chúng ta cũng gánh lấy trách nhiệm ấy (II Timôthê 2:2; Tít 2:1-8), và Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta phải giữ lòng trung tín (I Côrinhtô 4:2).
Trước hết Môise ôn lại quá khứ và nhắc nhở Y-sơ-ra-ên về sự thành tín của Đức Chúa Trời cùng sự bất trung của tổ phụ họ. Sau đó ông công bố Luật Pháp Đức Chúa Trời cùng giao ước Chúa đã thực hiện với họ tại Sinai, vì việc họ tuân giữ giao ước này sẽ quyết định thành công của họ trong Đất Hứa. Dân tộc đã du mục suốt bốn mươi năm, nhưng bây giờ họ vào xứ và bỏ lối sống cũ. Môise áp dụng Luật Pháp Đức Chúa Trời đã ban cho họ bốn mươi năm trước đây vào hoàn cảnh mới. Nếu Y-sơ-ra-ên tuân giữ giao ước Đức Chúa Trời, Ngài sẽ ban phước cho họ dồi dào và nước này sẽ là chứng nhân cho các nước xung quanh. Dân các nước này sẽ tìm hiểu Đức Chúa Trời. Người Y-sơ-ra-ên có nhiệm vụ phải giải thích cho họ về niềm tin của mình. Môise khuyên giục dân mình yêu Chúa, vì tình yêu là động cơ lớn nhất của sự vâng phục. Sách Phục Truyền Luật Lệ Ký quan trọng với dân Do Thái đến nỗi Đức Chúa Trời truyền phải tuyên đọc trong kỳ lễ Lều Tạm vào cuối mỗi năm Sabát (Phục Truyền 31:10-13) Phục Truyền Luật Lệ Ký có sứ điệp gì cho chúng ta ngày nay? Ba sự kiện hữu ích cho thấy: (1) cả Kinh Thánh đều do linh hứng và hữu ích, và điều đó bao gồm Phục Truyền Luật Lệ Ký. (2) Phục Truyền Luật Lệ Ký được trích dẫn trong Tân Ước gần một trăm lần. (3) Chúa Giêxu trích dẫn từ Phục Truyền Luật Lệ Ký nhiều hơn từ bất kỳ sách nào khác trong Cựu Ước. Đây chính là sách Ngài dùng khi bị Satan cám dỗ (Mathiơ 4:1-11) và khi bị kẻ thù Ngài chất vấn (Mathiơ 22:34-40) Hội Thánh ngày nay cần trở về với những nguyên tắc sống tin kính được giải thích trong Phục Truyền Luật Lệ Ký. Chỉ lúc đó chúng ta mới có thể tiến tới chiến thắng, nhờ đức tin nơi Đấng Christ, và nhận lấy cơ nghiệp Ngài đã chia cho chúng ta (Hêbơrơ 3-4). Yêu Đức Chúa Trời trên hết và yêu kẻ lân cận như mình, và tìm cách tôn vinh Đức Chúa Trời trong mọi điều chúng ta làm , chính là thực chất của sứ điệp Phục Truyền Luật Lệ Ký; và đó là sứ điệp chúng ta cần tuân hành khi đối diện những thách thức của tương lai. Warren W. Wiersbe |
phuc_truyen_luat_le_ky_-_warren_w._wiersbe.pdf | |
File Size: | 1617 kb |
File Type: |
phuc_truyen_luat_le_ky_bob_utley.pdf | |
File Size: | 3548 kb |
File Type: |